

Nguyễn Xuân Phúc
Giới thiệu về bản thân



































Bấm vào nút " đúng" ở góc trái dưới trên câu trả lời muốn tick ( tick cho t ik)
Nhà Hồ, đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Hồ Quý Ly, không xây dựng được đoàn kết dân tộc như nhà Trần và các triều đại khác bởi một số nguyên nhân chính sau đây:
- Thiếu sự ủng hộ từ quần chúng: Một trong những yếu tố then chốt dẫn đến thất bại của nhà Hồ là không nhận được sự đồng tình và ủng hộ từ đông đảo quần chúng nhân dân. Họ đã thực hiện nhiều chính sách cải cách nhưng không thực sự phục vụ lợi ích của nhân dân, dẫn đến sự không hài lòng và mất lòng tin
- Chính sách cải cách chưa triệt để: Hồ Quý Ly tiến hành cải cách về kinh tế, chính trị và xã hội, như hạn điền, phát hành tiền giấy, nhưng nhiều chính sách này bị cho là phiền hà và không thực tế. Chính sách hạn điền ví dụ, khiến cho nhiều thành phần quý tộc và nông dân thất vọng do đã ảnh hưởng tới quyền lợi của họ
- Lối đi chiến tranh sai lầm: Trong khi nhà Minh xâm lược, nhà Hồ không tạo ra được một phong trào kháng chiến toàn dân, mà lại chỉ dựa vào xây dựng thành lũy để phòng thủ, thiếu sự đoàn kết và huy động sức mạnh của toàn dân. Điều này khiến nhà Hồ không thể kháng cự hiệu quả trước sự xâm lăng của kẻ thù
- Thiếu công tác tuyên truyền và vận động quần chúng: Nhà Hồ không thực hiện tốt công tác tuyên truyền nhằm giáo dục cho nhân dân về các cải cách và mục tiêu quốc gia. Điều này dẫn đến sự phản kháng và bất mãn từ họ, bởi họ chỉ thấy được những khó khăn mà cải cách mang lại mà không nhận ra lợi ích lâu dài
Tóm lại, sự kết hợp của các yếu tố trên đã tạo ra một môi trường không thể giúp nhà Hồ xây dựng được sự đoàn kết dân tộc, dẫn đến sự thất bại trong các cải cách và cuối cùng là sụp đổ trước sức mạnh ngoại bang.
tik cho tui
tik cho tui nha
Vai trò của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077)
Lý Thường Kiệt là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược vào những năm 1075-1077. Vai trò của ông có thể được đánh giá qua các khía cạnh sau:
- Chỉ huy quân sự: Lý Thường Kiệt được vua Lý Nhân Tông giao phó nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ông đã tổ chức và chỉ huy quân đội với chiến lược hợp lý, khéo léo, giúp quân ta có thể phòng ngự và phản công hiệu quả.
- Chiến lược tấn công: Ông đã áp dụng chiến lược "Tiên phát chế nhân" (tấn công trước để làm cho địch bị động), thực hiện nhiều trận đánh lớn, trong đó có trận Núi Mã Yên và trận Khánh Hòa. Những chiến thắng này đã góp phần làm suy yếu sức chiến đấu của quân Tống.
- Xây dựng phòng tuyến: Lý Thường Kiệt đã lựa chọn sông Như Nguyệt làm phòng tuyến tự nhiên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng ngự. Ông đã chỉ đạo xây dựng các công trình phòng thủ vững chắc, góp phần cản trở sự tiến quân của quân Tống.
- Tâm lý chiến: Ông không chỉ chiến đấu bằng vũ lực mà còn sử dụng chiến thuật tâm lý. Một trong những ví dụ nổi bật là bài thơ thần "Nam quốc sơn hà", tạo động lực cho quân sĩ và khiến quân địch thêm lo sợ.
- Kết thúc chiến sự: Sau khi đã tạo ra một thế trận vững chắc và tiêu hao lực lượng của địch, Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến sự bằng các biện pháp thương lượng, thương thuyết hòa bình, giảm thiểu tổn thất cho nhân dân và đất nước.
Tóm lại, Lý Thường Kiệt không chỉ là một nhà chỉ huy quân sự xuất sắc mà còn là một nhà chiến lược tài ba, đóng góp to lớn vào những thành công trong cuộc kháng chiến chống quân Tống, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc trong giai đoạn khó khăn này.
siiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuu
Để tìm số nguyên tố \(P\) sao cho \(P + 2\) và \(P + 4\) cũng là số nguyên tố, ta xét các trường hợp sau:
- Nếu \(P = 2\), thì \(P + 2 = 4\) (không phải số nguyên tố).
- Nếu \(P = 3\), thì \(P + 2 = 5\) (số nguyên tố) và \(P + 4 = 7\) (số nguyên tố).
- Nếu \(P > 3\), thì \(P\) có dạng \(3 k + 1\) hoặc \(3 k + 2\) (với \(k\) là số nguyên dương).
- Nếu \(P = 3 k + 1\), thì \(P + 2 = 3 k + 1 + 2 = 3 k + 3 = 3 \left(\right. k + 1 \left.\right)\) chia hết cho 3, do đó \(P + 2\) không phải là số nguyên tố (vì \(k \geq 1\), nên \(k + 1 > 1\)).
- Nếu \(P = 3 k + 2\), thì \(P + 4 = 3 k + 2 + 4 = 3 k + 6 = 3 \left(\right. k + 2 \left.\right)\) chia hết cho 3, do đó \(P + 4\) không phải là số nguyên tố (vì \(k \geq 1\), nên \(k + 2 > 1\)).
Vậy, trường hợp duy nhất mà \(P\), \(P + 2\), và \(P + 4\) đều là số nguyên tố là khi \(P = 3\).
Kết quả là \(P = 3\).
tik cho tui
Để thu gọn đa thức \(B \left(\right. x \left.\right) = 3 x + 5 x^{3} - 3 x^{4} + 6 x - 7\), bạn đã thực hiện các bước sau:
- Tìm các hạng tử đồng dạng: Các hạng tử đồng dạng là các hạng tử có cùng phần biến (ví dụ: \(3 x\) và \(6 x\)).
- Kết hợp các hạng tử đồng dạng: Cộng hoặc trừ các hệ số của các hạng tử đồng dạng.
- Sắp xếp theo lũy thừa giảm dần của biến: Sắp xếp các hạng tử sao cho số mũ của biến giảm dần từ trái sang phải.
Thực hiện các bước trên, ta có:\(B \left(\right. x \left.\right) & = 3 x + 5 x^{3} - 3 x^{4} + 6 x - 7 \\ B \left(\right. x \left.\right) & = - 3 x^{4} + 5 x^{3} + \left(\right. 3 x + 6 x \left.\right) - 7 \\ B \left(\right. x \left.\right) & = - 3 x^{4} + 5 x^{3} + 9 x - 7\)Vậy, đa thức \(B \left(\right. x \left.\right)\) sau khi thu gọn là: \(- 3 x^{4} + 5 x^{3} + 9 x - 7\)
tik cho tui
Để thu gọn đa thức \(B \left(\right. x \left.\right) = 3 x + 5 x^{3} - 3 x^{4} + 6 x - 7\), ta thực hiện các bước sau:
- Tìm các hạng tử đồng dạng: Các hạng tử đồng dạng là các hạng tử có cùng phần biến (ví dụ: \(3 x\) và \(6 x\)).
- Kết hợp các hạng tử đồng dạng: Cộng hoặc trừ các hệ số của các hạng tử đồng dạng.
- Sắp xếp theo lũy thừa giảm dần của biến: Sắp xếp các hạng tử sao cho số mũ của biến giảm dần từ trái sang phải.
Thực hiện các bước trên, ta có:
\(B \left(\right. x \left.\right) = 3 x + 5 x^{3} - 3 x^{4} + 6 x - 7\)
\(B \left(\right. x \left.\right) = - 3 x^{4} + 5 x^{3} + \left(\right. 3 x + 6 x \left.\right) - 7\)
\(B \left(\right. x \left.\right) = - 3 x^{4} + 5 x^{3} + 9 x - 7\)
Vậy, đa thức \(B \left(\right. x \left.\right)\) sau khi thu gọn là: \(- 3 x^{4} + 5 x^{3} + 9 x - 7\)
tik cho tui
Để viết phản ứng của các aldehyde có công thức phân tử là C5H10O với NaBH4, ta cần xác định các aldehyde có thể có với công thức này, sau đó viết phản ứng khử của chúng với NaBH4.
1. Xác định các aldehyde có công thức C5H10O:
Các aldehyde có công thức C5H10O có thể là:
- Pentan-1-al (CH3CH2CH2CH2CHO)
- 2-methylbutanal (CH3CH2CH(CH3)CHO)
- 3-methylbutanal ((CH3)2CHCH2CHO)
- 2,2-dimethylpropanal ((CH3)3CCHO)
2. Phản ứng khử aldehyde bằng NaBH4:
NaBH4 là một chất khử yếu, nó có thể khử aldehyde thành alcohol bậc nhất. Phản ứng tổng quát như sau:
\(R - C H O + N a B H_{4} + H_{2} O \rightarrow R - C H_{2} O H + N a O H + B \left(\right. O H \left.\right)_{3}\)
Trong đó R là gốc alkyl.
3. Viết các phản ứng cụ thể:
- Pentan-1-al:\(C H_{3} C H_{2} C H_{2} C H_{2} C H O + N a B H_{4} + H_{2} O \rightarrow C H_{3} C H_{2} C H_{2} C H_{2} C H_{2} O H + N a O H + B \left(\right. O H \left.\right)_{3}\)Sản phẩm: Pentan-1-ol
- 2-methylbutanal:\(C H_{3} C H_{2} C H \left(\right. C H_{3} \left.\right) C H O + N a B H_{4} + H_{2} O \rightarrow C H_{3} C H_{2} C H \left(\right. C H_{3} \left.\right) C H_{2} O H + N a O H + B \left(\right. O H \left.\right)_{3}\)Sản phẩm: 2-methylbutan-1-ol
- 3-methylbutanal:\(\left(\right. C H_{3} \left.\right)_{2} C H C H_{2} C H O + N a B H_{4} + H_{2} O \rightarrow \left(\right. C H_{3} \left.\right)_{2} C H C H_{2} C H_{2} O H + N a O H + B \left(\right. O H \left.\right)_{3}\)Sản phẩm: 3-methylbutan-1-ol
- 2,2-dimethylpropanal:\(\left(\right. C H_{3} \left.\right)_{3} C C H O + N a B H_{4} + H_{2} O \rightarrow \left(\right. C H_{3} \left.\right)_{3} C C H_{2} O H + N a O H + B \left(\right. O H \left.\right)_{3}\)Sản phẩm: 2,2-dimethylpropan-1-ol
- tick cho tuiiiiii
Để giải phương trình \(12 x^{4} + 5 x = 3 \left(\right. x + 1 \left.\right)\), ta thực hiện các bước sau:
- Mở rộng và đơn giản hóa phương trình:\(12 x^{4} + 5 x = 3 x + 3\)
- Chuyển tất cả các số hạng về một vế:\(12 x^{4} + 5 x - 3 x - 3 = 0\)\(12 x^{4} + 2 x - 3 = 0\)
- Giải phương trình bậc 4: Phương trình \(12 x^{4} + 2 x - 3 = 0\) là một phương trình bậc 4. Việc giải phương trình bậc 4 có thể phức tạp và thường đòi hỏi các phương pháp số hoặc sử dụng phần mềm để tìm nghiệm gần đúng. Tuy nhiên, ta có thể sử dụng các phương pháp như phân tích thành nhân tử (nếu có thể) hoặc sử dụng các công cụ toán học để tìm nghiệm.
Trong trường hợp này, việc phân tích thành nhân tử không dễ dàng. Do đó, ta có thể sử dụng các phương pháp số hoặc phần mềm để tìm nghiệm gần đúng của phương trình.
tích cho tui