

Trương Hữu Phúc
Giới thiệu về bản thân



































Hành trang lớn nhất Người mang theo là lòng yêu nước, thương dân sâu sắc và đôi bàn tay lao động với quyết tâm tìm ra chân lý để trở về cứu dân, cứu nước khỏi kiếp đọa đày, nô lệ. Tuy nhiên, với vốn tri thức phong phú và những kinh nghiệm quý báu có được trong gần 10 năm bôn ba, hòa mình vào cuộc sống của các tầng lớp nhân dân lao động ở khoảng 30 quốc gia trên thế giới; cộng với tư duy sắc sảo, nhãn quan chính trị nhạy bén, Người đã bắt gặp và đến được với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ nghĩa Cộng sản và trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt chính trị vĩ đại đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của Nguyễn Ái Quốc về con đường cứu nước, vạch ra hướng đi đúng đắn cho cách mạng Việt Nam-đó là: cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trước Nguyễn Tất Thành đã có những người Việt Nam xuất dương cứu nước. Chỗ khác nhau cơ bản không phải ở hành động xuất dương, mà trước hết ở mục đích của nó. Những chuyến đi của Tôn Thất Thuyết, của những nhân vật trong phong trào Đông Du chủ yếu để tìm ngoại viện. Nguyễn Tất Thành xác định mục tiêu xuất dương hoàn toàn khác: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Rõ ràng, trước lúc ra đi, Người đã nhận thức một cách rõ ràng, cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là súng đạn, của cải mà là cách đuổi giặc cứu nước, là làm cách mạng, hay nói cách khác là lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng.
Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm ròng (1911-1920), bàn chân của Người đã từng in dấu trên 3 đại dương, 4 châu lục (Âu, Á, Phi, Mỹ) và khoảng 3 chục quốc gia. Đặc biệt, Người đã dừng chân khảo sát khá lâu ở 3 đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Đâu đâu Người cũng chịu đựng mọi gian khổ, hòa mình vào cuộc sống của những người lao động, sẵn sàng làm mọi nghề như nấu bếp, làm vườn, vẽ thuê... không chỉ để kiếm sống mà là để trải nghiệm, thấu hiểu hơn về cuộc sống của người dân lao động trên khắp thế giới. Từ đó, chủ nghĩa yêu nước ở Người có những chuyển biến mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được nâng lên thành đồng cảm với nhân dân lao động các dân tộc cùng cảnh ngộ. Và cũng qua đó, sự nhận biết diện mạo của kẻ thù trở nên sâu sắc hơn, khái quát hơn không chỉ đối với thực dân Pháp mà cả chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc nói chung. Trên cơ sở đó, Người rút ra một kết luận có tính chất nền tảng đầu tiên: Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Những nhận biết căn bản đó càng giục giã Người quyết tâm tìm con đường giải phóng dân tộc mà Người đã ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất kết thúc. Thành phố Paris hoa lệ sống trong bầu không khí sôi động với những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp và sự chuyển mình của những người cánh tả trong Đảng Xã hội Pháp theo đường lối Quốc tế Cộng sản của V.I.Lênin. Nguyễn Tất Thành vừa bước đến Paris đã lao ngay vào hoạt động chính trị. Người cùng với Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh-những người đã trao đổi thư từ khi còn ở nước Anh lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước, nhằm đưa phong trào yêu nước của Việt kiều ở Pháp đi theo một hướng tích cực.
Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18-6-1919, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam ở Pháp, Người đã gửi tới hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Cùng ngày, bản yêu sách đó xuất hiện trên tờ báo Nhân đạo-Cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, dưới nhan đề: Quyền của các dân tộc. Bản Yêu sách còn được Nguyễn Ái Quốc dịch ra chữ Hán và chuyển thành một bài diễn ca tiếng quốc ngữ. Nó được in dưới dạng truyền đơn gửi tới các tòa báo, phân phát trong các mít tinh, cuộc họp ở nhiều tỉnh nước Pháp và bí mật gửi về Việt Nam qua con đường thủy thủ và khách về nước.
Với bản yêu sách đó, Nguyễn Ái Quốc đã gây tiếng vang lớn ở Pháp mà còn dội mạnh về nước, tạo nên bước chuyển mới trong phong trào giải phóng dân tộc. Thực dân Pháp đã đi từ kinh ngạc đến lồng lộn hò hét, cuối cùng ra lệnh điều tra tung tích Nguyễn Ái Quốc và lập cơ quan chuyên trách theo dõi những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và Việt kiều yêu nước để áp dụng những biện pháp ngăn chặn.
Báo L’Humanité (Nhân đạo) số ra ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng toàn văn Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin dưới tiêu đề chạy suốt trang đầu. Bản Luận cương đã ngay lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Người đã đọc đi, đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng dân tộc và đất nước khỏi ách thực dân. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Đại hội lần thứ Nhất các dân tộc phương Đông nhằm phổ cập các nghị quyết của Đại hội II Quốc tế Cộng sản và tư tưởng đoàn kết phương Tây vô sản và phương Đông bị áp bức vào tháng 8 và tháng 9-1920. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong khẩu hiệu lần đầu tiên trong Đại hội: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Biên bản của Đại hội đã thu hút sự chú ý của tất cả những ai quan tâm đến phương Đông, trong đó có Nguyễn Ái Quốc. Có thể nói, sau Luận cương, những sự kiện chính trị trên đã góp phần củng cố thêm niềm tin vững chắc vào Lênin, vào Quốc tế Cộng sản, củng cố thêm lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 12-1920, tại Đại hội Tua, bằng quyết định sáng suốt về mặt tổ chức là bỏ phiếu ủng hộ Quốc tế Cộng sản, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành Người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là sự kiện đánh dấu bước chuyển căn bản về nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc theo đường lối của Quốc tế Cộng sản, theo lập trường vô sản, nó có ý nghĩa to lớn: Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại, một đại diện của giai cấp công nhân và dân tộc thuộc địa tham gia sáng lập Đảng tiên phong của giai cấp công nhân ở một nước đế quốc lớn đang áp bức dân tộc mình. Điều đó có nghĩa là thông qua Nguyễn Ái Quốc, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam đã bắt tay với giai cấp công nhân Pháp hợp thành một mặt trận đánh đổ kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản Pháp. Sự kiện đó còn mang một ý nghĩa tượng trưng cho xu thế cách mạng thế giới-tính đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô sản và dân tộc bị áp bức trên thế giới theo khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế Cộng sản.
Lịch sử cho thấy, có nhiều con đường đến với Chủ nghĩa Cộng sản, trở thành người Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc trở thành người Cộng sản theo con đường riêng của mình. Từ một người dân thuộc địa trong hoàn cảnh phong trào công nhân chưa phát triển, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin chưa rọi tới, nhưng xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người đã vượt qua muôn vàn khó khăn, trở ngại để tìm hiểu, khảo nghiệm cuộc sống của các dân tộc trên thế giới và trực tiếp tham gia phong trào công nhân của chính quốc là một nước công nghiệp phát triển, rồi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành người cộng sản. Tiêu chuẩn cao nhất cho sự lựa chọn và định hướng của Người là kiên quyết đứng về phía học thuyết và tổ chức cách mạng nào thực sự quan tâm đến cuộc sống và quyền lợi của các dân tộc bị áp bức, bênh vực, ủng hộ và chỉ ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Tiêu chuẩn hết sức thiết thực đó của một thanh niên yêu nước của một nước thuộc địa lại phù hợp với chân lý của thời đại khi mà cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Đây chính là điểm gặp gỡ có ý nghĩa then chốt giữa con người Nguyễn Ái Quốc, dân tộc Việt Nam với Chủ nghĩa Cộng sản, với thời đại Lênin.
Việc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc -Từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Cộng sản. Đây cũng là sự khởi đầu một bước ngoặt căn bản trong lịch sử và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Thực hiện bước ngoặt đó, Người đã hoàn tất chặng đường đầu của hành trình cứu nước, đã tìm ra chân lý của thời đại và bắt đầu cuộc đấu tranh đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới bằng việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, chuẩn bị dần dần, từng bước về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời một Đảng mác-xít ở Việt Nam, nhân tố cơ bản, đầu tiên đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
chơi blox fruit ko bn ?
Nón quai thao em đợi ở sân đình
Đề: Nêu những nét mới của phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX.
Trả lời:
Phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX, là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất, kiên cường vì độc lập tự do của nhân dân ta trong bối cảnh cả dân tộc đã trở thành thuộc địa. Đay cũng là phong trào có tính cách mạng một cách rõ rệt.
- Phong trào đa đề xướng chủ trương cứu nước mới, thoát ra khỏi phạm trù và cách thức cứu nước theo tư tưởng phong kiến, hướng theo con đường dân chủ tư sản, gắn giải phóng dân tộc với cải biến về xã hội, hòa nhập vào trào lưu tiến hóa của nhân loại.
- Phong trào đã thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, làm thức tỉnh dân tộc, dấy lên ý thức tự lực, tự cường, với nhiều hình thức hoạt động và cách biểu hiện vô cùng phong phú.
- Phong trào đã đạt được những bước tiến rõ rệt về trình độ tổ chức, cách thức hoạt động, cách thức đấu tranh vói một quy mô rộng lớn, vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, đặt cơ sở bước đầu cho việc tập hợp giai cấp, đoàn kết các dân tộc có cùng cảnh ngộ chống chủ nghĩa đế quốc, chống áp bức và cường quyền.
- Phong trào đã có đóng góp xuất sắc về mặt văn hóa, tạo ra bước ngoặt về ngôn ngữ, chữ viết và cải cách giáo dục ở Việt Nam.
Đề: Nêu những hiểu biết của em về cải cách của Khúc Hạo.
Trả lời:
- Nội dung cải cách của Khúc Thừa Hạo:
+ Chia, đặt lại các lộ, phủ, châu và xã ở các xứ.
+ Thực hiện: bình quân thuế ruộng cho công bằng, tha bỏ lực dịch cho dân bớt khổ
+ Lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán để quản lí cho thống nhất.
- Ý nghĩa:
+ Củng cố chính quyền tự chủ của người Việt.
+ Xây dựng được một chính quyền dân tộc thống nhất, vững mạnh từ trung ương đến các làng xã, khắc phục được tính phân tán quyền lực.
+ Bồi dưỡng sức dân; thúc đẩy sức sản xuất đồng thời tập hợp được mọi lực lượng yêu nước để bảo vệ nền tự chủ.
+ Đặt nền móng, tạo điều kiện để cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn (năm 938).
Tác dụng:
Những cải cách của Khúc Hạo đã tạo điều kiện cho chính quyền trung ương có khả năng kiểm soát tất cả các vùng trong địa phương, củng cố sự thống nhất về mặt lãnh thổ, xóa bỏ chế độ nô dịch hà khắc, mang lại sự yên vui cho nhân dân, thể hiện rõ tinh thần của một quốc gia độc lập và tự chủ.
9 giờ 21 phút
x 5
________________
45 giờ 105 phút
( hay 46 giờ 45 phút )
THP
Khổ thơ “ Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình, cho hết thảy
Như dòng sông chảy, nặng phù sa.”
trong bài thơ “Thăm nhà Bác” đã để lại trong em nhiều cảm xúc. Em cảm thấy rất xúc động trước tình yêu thương vô bờ bến mà Bác dành cho mọi người, cho cuộc sống, cho thiên nhiên. Bác luôn quên mình vì lợi ích của cộng đồng, như dòng sông chảy không ngừng để nuôi dưỡng mọi sinh vật. Bài thơ này đã giúp em hiểu hơn về tình yêu thương và lòng hi sinh vĩ đại của Bác Hồ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam.
- Điệp từ “thương” được lặp lại hai lần, tạo nên sự nhấn mạnh về tình cảm yêu thương mà Bác dành cho mọi người và cuộc sống.
- Điệp ngữ “quên mình, cho hết thảy” cũng thể hiện rõ nét tinh thần hi sinh vì lợi ích chung của Bác.
nếu là 1000 m thì = 1 km
Ủa ờ ha