Câu 1. (2 điểm)
Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Dung trong đoạn trích sau:
(Lược một đoạn: Dung là con thứ bốn trong gia đình bị sa sút kinh tế. Nàng lớn lên trong sự hờ hững, lạnh nhạt của gia đình. Rồi bị mẹ già bán cho một nhà giàu để lấy mấy trăm đồng bạc.)
Khốn nạn cho Dung từ bé đến nay không phải làm công việc gì nặng nhọc, bây giờ phải tát nước, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt ngày. Đã thế lại không có người an ủi. Chồng nàng thì cả ngày thả diều, chả biết cái gì mà cũng không dám cãi lại bà cụ. Còn hai em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị mắng thêm.
Những lúc Dung cực nhọc quá, ngồi khóc thì bà mẹ chồng lại đay nghiến:
- Làm đi chứ, đừng ngồi đấy mà sụt sịt đi cô. Nhà tôi không có người ăn chơi, không có người cả ngày ôm lấy chồng đâu.
Rồi bà kể thêm:
- Bây giờ là người nhà tao rồi thì phải làm. Mấy trăm bạc dẫn cưới, chứ tao có lấy không đâu.
Dung chỉ khóc, không dám nói gì. Nàng đã viết ba bốn lá thư về kể nỗi khổ sở của nàng, nhưng không thấy cha mẹ ở nhà trả lời.
(Lược một đoạn: Dung ăn trộm tiền của mẹ chồng để trốn về nhà nhưng bị mẹ đẻ đay nghiến. Sáng hôm sau, mẹ chồng xuống tìm nàng.)
Bị khổ quá, nàng không khóc được nữa. Nàng không còn hi vọng gì ở nhà cha mẹ nữa. Nghĩ đến những lời đay nghiến, những nỗi hành hạ nàng phải sẽ chịu, Dung thấy lạnh người đi như bị sốt. Nàng hoa mắt lên, đầu óc rối bời, Dung ước ao cái chết như một sự thoát nợ.
Nàng không nhớ rõ gì. Ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết. Như trong một giấc mơ, Dung lờ mờ thấy cái thành cầu, thấy dòng nước chảy. [...] Nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối kéo đến che lấp cả.
Bỗng nàng mơ màng nghe thấy tiếng nhiều người, tiếng gọi tên nàng, một làn nước nóng đi vào cổ. Dung ú ớ cựa mình muốn trả lời.
[…] Hai hôm sau, Dung mạnh khỏe hẳn. Bà mẹ chồng vẫn chờ nàng, hỏi có vẻ gay gắt thêm:
- Cô định tự tử để gieo cái tiếng xấu cho tôi à? Nhưng đời nào, trời có mắt chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? Định ở hay định về?
Dung buồn bã trả lời:
- Con xin về.
(Trích Hai lần chết, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2008)
Câu 2. (4 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) trình bày suy nghĩ của em về vấn đề bình đẳng giới hiện nay.
Trong đoạn trích, Lê Tương Dực hiện lên như một nhân vật có chiều sâu tâm lý và tinh thần kiên cường. Là một người con của đất nước, Dực thể hiện sự nhạy cảm trước nỗi đau của dân tộc và trách nhiệm của bản thân trong bối cảnh lịch sử đầy biến động. Từ những dòng suy nghĩ của mình, ta thấy rõ sự trăn trở, lo lắng về tương lai của đất nước. Lê Tương Dực không chỉ đơn thuần là một người lính, mà còn là một người nghệ sĩ với tâm hồn nhạy cảm, luôn khao khát hòa bình và công lý.
Dực có một lòng yêu nước mãnh liệt, thể hiện qua những hành động và quyết định của mình. Anh không ngại khó khăn, thử thách để bảo vệ quê hương, dù biết rằng cái giá phải trả có thể là tính mạng. Sự dũng cảm của Dực không chỉ nằm ở việc cầm súng chiến đấu, mà còn ở khả năng nhận thức sâu sắc về giá trị của cuộc sống và những gì mình đang bảo vệ.
Ngoài ra, Dực còn mang trong mình nỗi cô đơn, sự mất mát khi chứng kiến cái chết của đồng đội, điều này càng làm nổi bật tâm hồn nhạy cảm và sâu lắng của anh. Từ đó, nhân vật Lê Tương Dực không chỉ là hình mẫu của một người lính, mà còn là biểu tượng của tinh thần yêu nước, lòng nhân ái và khát vọng hòa bình trong bối cảnh lịch sử đầy gian nan.
Câu 2: Nghị luận về bệnh vô cảm của giới trẻ hiện nayTrong xã hội hiện đại, bệnh vô cảm đang trở thành một vấn nạn đáng lo ngại, đặc biệt trong giới trẻ. Vô cảm không chỉ là sự thờ ơ trước những vấn đề xã hội, mà còn là sự thiếu kết nối và đồng cảm với những người xung quanh. Tình trạng này đang diễn ra ngày càng phổ biến và gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng.
Nguyên nhân dẫn đến bệnh vô cảm trong giới trẻ có thể bắt nguồn từ nhiều yếu tố. Đầu tiên, sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng xã hội đã khiến cho các mối quan hệ trở nên xa cách hơn. Thay vì giao tiếp trực tiếp, nhiều bạn trẻ chọn cách tương tác qua màn hình, dẫn đến sự thiếu hụt cảm xúc và sự đồng cảm. Thứ hai, áp lực từ học tập, công việc và cuộc sống hàng ngày cũng khiến cho giới trẻ trở nên mệt mỏi, từ đó dẫn đến sự thờ ơ với những vấn đề xung quanh. Cuối cùng, một phần không nhỏ do giáo dục và môi trường sống không khuyến khích sự chia sẻ, đồng cảm và trách nhiệm xã hội.
Hậu quả của bệnh vô cảm là rất nghiêm trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến các mối quan hệ cá nhân mà còn tác động đến cộng đồng. Khi mỗi người đều sống trong sự thờ ơ, xã hội sẽ trở nên lạnh lẽo, thiếu tình người. Những vấn đề như bạo lực học đường, xung đột xã hội hay thiên tai, dịch bệnh sẽ không nhận được sự quan tâm cần thiết, dẫn đến những hệ lụy khó lường.
Để khắc phục tình trạng này, cần có sự chung tay từ gia đình, nhà trường và xã hội. Giáo dục cần chú trọng đến việc phát triển kỹ năng sống, khuyến khích sự đồng cảm và tinh thần trách nhiệm. Các hoạt động tình nguyện, thiện nguyện cũng nên được khuyến khích để giúp giới trẻ hiểu rõ hơn về giá trị của việc chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau.
Tóm lại, bệnh vô cảm trong giới trẻ là một vấn đề cần được giải quyết một cách nghiêm túc. Chỉ khi mỗi cá nhân nhận thức được giá trị của sự đồng cảm và kết nối, xã hội mới có thể trở nên tốt đẹp hơn.