Chứng minh con gái=con dê
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Meo...meo...meo, rửa mặt như mèo". Đó là bài hát yêu thích của em Phượng, em gái em. Vì ngày nào Phượng cũng hát bài đó nên mẹ đã mua cho hai chị em một con mèo tam thể rất đẹp.
Chú mèo tên là Tôm. Bộ lông ba sắc màu vàng, đen, trắng xen kẽ nhau mượt mà và còn đem lại cho Tôm một bộ y phục tuyệt diệu. Cái đầu tròn tròn bằng nắm tay người lớn, được điểm sáng bằng cái mũi nho nhỏ, xinh xinh với hai cái lỗ ươn ướt màu hồng phấn. Hai bên khóe miệng, những sợi râu mép trắng như cước lúc nào cũng cử động liên tục. Chân chú như quả bí đao. Bốn chân nhỏ và thon. Cái đuôi dài thướt tha, duyên dáng. Bộ móng vuốt của Tôm thì rất lợi hại vừa nhọn trông vừa đáng sợ như một vũ khí phòng thân khi có chuyện gì xảy ra.
Tôm rất thích được vuốt ve, chiều chuộng. Những lúc đang xem tivi, chú nằm vào lòng em như muốn em xoa vào bộ lông mềm mại của chú. Những ngày nắng ấm, Tôm thường ra sân nằm cạnh gốc chanh, ưỡn cái bụng trắng hồng ra đón nắng. Đôi mắt cũng ra vẻ lim dim, ngắm nhìn những đám mây giữa vòm trời trong xanh lồng lộng.
Ban đêm, Tôm tỏ ra chăm chỉ và cần mẫn làm việc lắm. Không có một xó xỉnh nào mà chú không lục lọi. Đặc biệt là dưới bếp lũ chuột hay qua lại. Đôi mắt của chú trong đêm tối như những tia hào quang xuyên thủng bức màn đêm. Đôi bàn chân của chú được "trang bị" một lớp nệm dày và êm nên những bước đi của Tôm rất nhẹ nhàng. Vì vậy, những con chuột nhắt, chuột cống bẩn thỉu không thể nào qua khỏi chiếc miệng với những chiếc răng sắc nhọn của chú.
Em rất quý Tôm vì chú đã giúp gia đình em diệt sạch lũ chuột hư đốn. Với công lao to lớn này của chú em sẽ cho chú mèo Tôm "một người thợ săn chuột" bữa tiệc với vài con cá bống và một cốc sữa con bò. Tôm quả là một con mèo khôn ngoan và biết nghe lời.
Meo...meo...meo, rửa mặt như mèo". Đó là bài hát yêu thích của em Phượng, em gái em. Vì ngày nào Phượng cũng hát bài đó nên mẹ đã mua cho hai chị em một con mèo tam thể rất đẹp.
Chú mèo tên là Tôm. Bộ lông ba sắc màu vàng, đen, trắng xen kẽ nhau mượt mà và còn đem lại cho Tôm một bộ y phục tuyệt diệu. Cái đầu tròn tròn bằng nắm tay người lớn, được điểm sáng bằng cái mũi nho nhỏ, xinh xinh với hai cái lỗ ươn ướt màu hồng phấn. Hai bên khóe miệng, những sợi râu mép trắng như cước lúc nào cũng cử động liên tục. Chân chú như quả bí đao. Bốn chân nhỏ và thon. Cái đuôi dài thướt tha, duyên dáng. Bộ móng vuốt của Tôm thì rất lợi hại vừa nhọn trông vừa đáng sợ như một vũ khí phòng thân khi có chuyện gì xảy ra.
Tôm rất thích được vuốt ve, chiều chuộng. Những lúc đang xem tivi, chú nằm vào lòng em như muốn em xoa vào bộ lông mềm mại của chú. Những ngày nắng ấm, Tôm thường ra sân nằm cạnh gốc chanh, ưỡn cái bụng trắng hồng ra đón nắng. Đôi mắt cũng ra vẻ lim dim, ngắm nhìn những đám mây giữa vòm trời trong xanh lồng lộng.
Ban đêm, Tôm tỏ ra chăm chỉ và cần mẫn làm việc lắm. Không có một xó xỉnh nào mà chú không lục lọi. Đặc biệt là dưới bếp lũ chuột hay qua lại. Đôi mắt của chú trong đêm tối như những tia hào quang xuyên thủng bức màn đêm. Đôi bàn chân của chú được "trang bị" một lớp nệm dày và êm nên những bước đi của Tôm rất nhẹ nhàng. Vì vậy, những con chuột nhắt, chuột cống bẩn thỉu không thể nào qua khỏi chiếc miệng với những chiếc răng sắc nhọn của chú.
Em rất quý Tôm vì chú đã giúp gia đình em diệt sạch lũ chuột hư đốn. Với công lao to lớn này của chú em sẽ cho chú mèo Tôm "một người thợ săn chuột" bữa tiệc với vài con cá bống và một cốc sữa con bò. Tôm quả là một con mèo khôn ngoan và biết nghe lời.
Câu : Đồng tâm hiệp lực có nghĩa là :
Chung một lòng , góp sức lại với nhau ( làm việc lớn , mục đích chung )
Đồng tâm hiệp lực
chung một lòng, góp sức lại với nhau (để làm việc lớn, vì mục đích chung).
bn hãy đặt ra 1 bài văn ít nhất 6 dong , và mỗi câu có 1 trạng ngữ , và 1 chủ ngữ
các bn giúp mk nha
Nè cậu .
Có trạng ngữ , chủ ngữ nhưng ko vị ngữ .
Theo mik nhớ ko lầm đấy ko ph lak câu kể đâu
1 câu kể có thể không có trạng ngữ nhưng nhất định phải có 1 chủ ngữ và 1 vị ngữ .
Cậu sửa lại đề nhé .
Nga là người bạn thân nhất của em. Từ hồi tiểu học đến giờ. Nga là một người bạn rất tốt. Bạn ấy những xinh đẹp mà lại còn học rất giỏi. Trong lớp em, Nga được mọi người quý mến vì bạn ấy rất hay giúp đỡ và hòa đồng với mọi người. Nga có dáng người hơi dong dỏng. Bạn ấy có khuôn mặt trái xoan, đôi môi đỏ chúm chím. Trên khuôn mặt của bạn ấy, luôn xuất hiện bóng dáng của nụ cười ấm áp. Đặc biệt bạn ấy có đôi mắt chim bồ câu rất tuyệt vời. Em luôn nghĩ chắc ai cũng sẽ thích khi nhìn vào đôi mắt của bạn ấy. Vì là bạn thân nên em và Nga có rất nhiều kỉ niệm cùng nhau. Em quý Nga lắm. Em mong em và Nga sẽ mãi là bạn của nhau!
Con mèo nhà em nuôi là mèo tam thể. Mèo tam thể sinh được ba con mèo xinh xắn nhưng không con nào có màu lông giống mẹ. Ngoại cho em một con mèo lông đen mun khi mèo con đã biết ăn cơm.
Chú mèo con tuy nhỏ nhưng mạnh mẽ. Nó ăn ngoan, chóng lớn. Chỉ sáu tháng sau, nó đã là một chàng mèo trưởng thành, giỏi săn bắt chuột. Chàng mèo có bộ lông đen nhánh, óng mượt. Đầu mèo tròn, đôimắt của chàng ta màu xanh ve, sắc sảo. Hai tai nó như hai cái lá cắm hai bên mái đầu. Mũi chàng mèo màu nâu nhạt, nho nhỏ với bộ ria dài, cứng, đỏm dáng. Thân hình nó thon gọn, chỉ vừa bằng cánh tay người lớn. Bốn chân của mèo có những ngón chân u lên như đôi hài nhung đen. Chàng mèo đi lại uyển chuyển, ngoe ngoe cái đuôi dài, ra dáng một tay săn chuột điềm tĩnh, khôn ngoan.
Buổi sáng mèo ta thường nằm ườn ở hiên nhà sưởi nắng, xế trưa, mèo đi đi lại lại trong nhà. Chàng mèo ngó nghiêng lên tường nhà, chuẩn bị bắt thạch sùng. Thạch sùng chỉ là món để mèo nghịch chơi. Chuột mới chính là món mèo thích. Chiều tối, chàng mèo ngồi như bất động ở góc nhà, bốn chân thu lại, đuôi cong áp sát mặt đất. Chàng rình chuột. Mắt chàng mèo lúc này sáng quắc, chăm chú nhìn vào góc nhà, nơi mẹ em hay để thực phẩm chăn nuôi. Một con chuột nhắt lấp ló rồi chạy đến gần bao bắp. Mèo ta phóng đến, chỉ nghe một tiếng “chít” vang lên gọn lỏn. Mèo ta ngoạm chú chuột xấu số ra sân sau. Mèo vờn chuột, đùa giỡn chán rồi mới ăn. Nhờ chú mèo, nhà em bớt hẳn chuột phá thóc lúa. Chàng mèo khá tinh khôn, chàng cũng biết mừng chủ. Khi em đi học về, chàng mèo chạy đến, kêu một tiếng “meo” mừng rỡ rồi cạ thân mình, nép vào chân em. Em cúi xuống vuốt đầu chàng mèo. Mèo ta rất bằng lòng, chàng lim dim mắt nom vừa dễ thương, vừa buồn cười.
Nuôi mèo để đỡ bị chuột cắn phá đồ đạc trong nhà nên hầu hết ở nông thôn, mọi nhà đều nuôi mèo bắt chuột. Chàng mèo bắt chuột giỏi của em được mọi người khen ngợi và thường gọi đùa chàng là “Dũng sĩ diệt chuột”. Em rất yêu chàng mèo và thường đùa giỡn với chàng. Thế nên, ngoài những lúc làm “Dũng sĩ diệt chuột” chàng mèo là một người bạn thân của em, biết nhõng nhẽo, làm dáng và đón em ở cửa nhà sau mỗi buổi học về. Chàng mèo thật đáng yêu! (Hết)
Con mèo nhà em nuôi là mèo tam thể. Mèo tam thể sinh được ba con mèo xinh xắn nhưng không con nào có màu lông giống mẹ. Ngoại cho em một con mèo lông đen mun khi mèo con đã biết ăn cơm.
Chú mèo con tuy nhỏ nhưng mạnh mẽ. Nó ăn ngoan, chóng lớn. Chỉ sáu tháng sau, nó đã là một chàng mèo trưởng thành, giỏi săn bắt chuột. Chàng mèo có bộ lông đen nhánh, óng mượt. Đầu mèo tròn, đôimắt của chàng ta màu xanh ve, sắc sảo. Hai tai nó như hai cái lá cắm hai bên mái đầu. Mũi chàng mèo màu nâu nhạt, nho nhỏ với bộ ria dài, cứng, đỏm dáng. Thân hình nó thon gọn, chỉ vừa bằng cánh tay người lớn. Bốn chân của mèo có những ngón chân u lên như đôi hài nhung đen. Chàng mèo đi lại uyển chuyển, ngoe ngoe cái đuôi dài, ra dáng một tay săn chuột điềm tĩnh, khôn ngoan.
Buổi sáng mèo ta thường nằm ườn ở hiên nhà sưởi nắng, xế trưa, mèo đi đi lại lại trong nhà. Chàng mèo ngó nghiêng lên tường nhà, chuẩn bị bắt thạch sùng. Thạch sùng chỉ là món để mèo nghịch chơi. Chuột mới chính là món mèo thích. Chiều tối, chàng mèo ngồi như bất động ở góc nhà, bốn chân thu lại, đuôi cong áp sát mặt đất. Chàng rình chuột. Mắt chàng mèo lúc này sáng quắc, chăm chú nhìn vào góc nhà, nơi mẹ em hay để thực phẩm chăn nuôi. Một con chuột nhắt lấp ló rồi chạy đến gần bao bắp. Mèo ta phóng đến, chỉ nghe một tiếng “chít” vang lên gọn lỏn. Mèo ta ngoạm chú chuột xấu số ra sân sau. Mèo vờn chuột, đùa giỡn chán rồi mới ăn. Nhờ chú mèo, nhà em bớt hẳn chuột phá thóc lúa. Chàng mèo khá tinh khôn, chàng cũng biết mừng chủ. Khi em đi học về, chàng mèo chạy đến, kêu một tiếng “meo” mừng rỡ rồi cạ thân mình, nép vào chân em. Em cúi xuống vuốt đầu chàng mèo. Mèo ta rất bằng lòng, chàng lim dim mắt nom vừa dễ thương, vừa buồn cười.
Nuôi mèo để đỡ bị chuột cắn phá đồ đạc trong nhà nên hầu hết ở nông thôn, mọi nhà đều nuôi mèo bắt chuột. Chàng mèo bắt chuột giỏi của em được mọi người khen ngợi và thường gọi đùa chàng là “Dũng sĩ diệt chuột”. Em rất yêu chàng mèo và thường đùa giỡn với chàng. Thế nên, ngoài những lúc làm “Dũng sĩ diệt chuột” chàng mèo là một người bạn thân của em, biết nhõng nhẽo, làm dáng và đón em ở cửa nhà sau mỗi buổi học về. Chàng mèo thật đáng yêu! (Hết)
Trong gia đình, tôi yêu quý tất cả mọi người, nhưng người mà tôi yêu mến nhất, kính trọng nhất vẫn là ông ngoại. Bất cứ lúc nào, hình ảnh của ông cũng thật ngọt ngào trong trái tim tôi.
Ông tôi chưa già lắm đâu, chỉ khoảng bảy mươi thôi. Dáng ông tầm thước như bao cụ già khác. Khuôn mặt sắt lại với nhiều nếp nhăn của những ngày tháng khó khăn, vất vả mà gian khổ nhất là những năm tháng trong chiến trường miền Đông Nam Bộ xưa kia. Khuôn mặt vuông vuông chữ điền, nước da sạm lại với nhiều chấm đồi mồi, đuôi mắt lại đầy những vết chân chim; vậy mà ông tôi trông vẫn đẹp lão lắm. Đặc biệt là với tôi, ông quả thật đẹp.
Hạnh phúc nhất là được nằm trong lòng ông, tay vuốt ve chòm râu điểm bạc, ngước nhìn đôi mắt ấm áp, hiền từ của ông. Lúc đó tôi có cảm giác như đang ở trong truyện cổ tích, như có ông Bụt ở bên với bao phép màu tốt lành và đẹp đẽ. Tôi rất thích nắm tay ông, được thấy hơi ấm nóng từ tay ông truyền sang, thật là khoan khoái.
Bố mẹ đi làm suốt ngày, ông với tôi sao mà thân thiết thế. Giọng nói của ông trầm trầm và rất truyền cảm, bởi hồi trẻ ông đã là một "cây” kịch nói nghiệp dư nổi tiếng của trung đoàn. Chính vì thế, ông ru hoặc kể chuyện cho lũ cháu chúng tôi nghe, chỉ được một lúc là đứa nào đứa nấy díp cả mắt lại.
Ông tôi nhiều con cho nên cũng lắm cháu. Tôi chưa thấy ai yêu và quyến luyến với lũ cháu như ông. Ông thường thẳng thắn bộc bạch: Khi có cháu, lại thấy yêu cháu hơn con rất nhiều!”. Lũ chúng tôi cũng yêu quý và gắn bó với ông lắm. Nhất là tôi, thằng cháu “đích tôn” như ông vẫn trìu mến gọi vậy.
Lại một bất ngờ nữa khiến các bạn khó tin, chính ông tôi chứ không phải ai khác trong gia đình này là người ngoại trợ chính. Đứng cạnh Ông, bà tôi trở nên vụng về, lúng túng, như bà thường tự nhận “Bà của cháu mồ côi sớm nên việc bếp núc, nội trợ đoảng vị quá!”. Cứ sáng sớm, sau khi tập thể dục, luyện vài bài dưỡng sinh là ông lại xách giỏ đi chợ.
Ông đâm nghiện những tiếng chào mời, lời kì kèo qua lại của cái chợ nhỏ nằm tại khu chung cư của chúng tôi. Những thứ ông mua đều tươi rói, vừa ngon lại vừa đẹp mắt bởi nhiều màu sắc. Ông nấu nướng ngon lắm, mời các bạn đến nhà tôi mà xem, ông tôi sẽ trổ tài nghệ tuyệt vời của mình để các bạn thưởng thức, đố có mà chê nổi.
Tôi còn quên chưa nói tới sự quan tâm đặc biệt nữa của ông mình về tình hình thời sự trong và ngoài nước. Không có chương trình thời sự nào của Truyền hình, của Đài Tiếng nói Việt Nam, của báo chí nào mà ông bỏ qua. Đã thế ông còn năng trao đổi với bạn bè, không gặp gỡ, không họp hành thì ông lại gọi điện thoại. Có lẽ, điện thoại của ông tôi chỉ để làm hai việc, hỏi thăm con cháu và bàn bạc về thời sự nóng hổi.
Khi nói, ông tỏ ra say sưa, nhiệt tình như có bạn mình ở trước mặt vậy. Hầu hết các thông tin về thời sự, tôi được biết qua ông mình. Mỹ đánh I-rắc cũng khiến ông tôi buồn bực, phiền muộn vô cùng, làm cả nhà xót cả ruột. Trong nhà tôi, ông thường coi vườn cây xanh trên tầng thượng là tài sản của mình. Trên đó có bao nhiêu là cây, là hoa. Thứ cây nào ngoài tên ra cũng đều có lí lịch riêng của nó. Nào là kỉ niệm ngày ở chiến trường về, ngày thăm Điện Biên Phủ, ngày sinh đứa cháu đầu,… Công ông tưới bón, chăm chút, bắt sâu, tạo nên vườn cây này.
Sinh nhật vừa rồi của tôi, ông tặng một chiếc kèn nhỏ xinh. Tôi tự mày mò và bây giờ đã thổi được bài “Nhạc rừng” mà ông yêu thích. Ông tôi tự hào lắm, cứ khoe khắp khu nhà về tài của cháu mình. Nhưng tôi hiểu không phải vậy, chẳng qua ông yêu tôi quá thôi!
Tôi yêu quý và kính mến ông rất nhiều và cũng biết ông yêu lại tôi như vậy. Ông là người hay là ông Bụt, tôi cũng không biết nữa.“Cháu sẽ phải cố gắng nhiều để làm vui lòng ông, ông ơi!”. Tôi vẫn nhủ thầm như vậy.
Nhà em khá đông người, ai em cũng yêu quý và kính trọng nhưng người em gần gũi, kính trọng hơn cả là ông nội của em.
Ông em năm nay đã gần tám mươi tuổi nhưng trông ông còn rất nhanh nhẹn. Người ông tầm thước, hơi gầy, da dẻ vẫn hồng hào. Đầu ông còn rất ít tóc, chỉ còn lơ thơ một vài sợi tóc bạc trắng như cước.Vầng trán ông cao, hằn sâu những nếp nhăn. Đôi mắt còn tinh nhanh ẩn dưới cặp lông mày đã ngả bạc. Má ông hơi hóp làm cho hai gò má nhô cao hẳn lên. Răng ông đã rụng nhiều nhưng nhờ lắp hàng răng giả nên nụ cười vẫn tươi tắn. Em thích nhất chòm râu của ông, mỗi lần được ngồi trong lòng ông, em ngước nhìn mãi những sợi râu trắng dài và thích được ông cho vuốt râu. Hằng ngày, ông thường mặc bộ quần áo ta bằng loại vải mềm, màu sẫm, đi đôi dép nhựa đã mòn. Chỉ lúc đọc sách báo, ông mới đeo kính và khi nào phải đi ra ngoài, ông thường phải chống gậy.
Tuổi đã cao nhưng ông làm việc luôn chân luôn tay và thích tự tay làm mọi việc. Khi thì ông quét nhà, quét vườn; lúc vun gốc cho mấy cây trong vườn; khi lại tỉa cây, bắt sâu, tưới cây cảnh. Ông thường xuyên dành thời gian kiểm tra việc học của em, dạy em tập viết, tập làm tính, tập đọc diễn cảm,... Không chỉ vậy, ông còn dành thời gian tham gia công việc của phường như xây dựng tủ sách cho nhà văn hóa, ủng hộ đồng bào bị lũ lụt,... Những lúc rảnh rỗi, ông nội em thường đọc sách báo, nằm võng ngoài hiên nghe đài hoặc xem vô tuyến. Em thích nhất là những đêm trăng sáng, chúng em thường ngồi quây quần bên ông nghe ông kể chuyện cổ tích thật hay và thú vị. Ông em là người rất hiền lành nhưng đối với con cháu, ông rất nghiêm khắc mỗi khi có ai mắc lỗi, ông thẳng thắn phê bình nhưng ông luôn nhẹ nhàng chỉ ra lỗi sai để cho chúng em sửa chữa. Đối với mọi người xung quanh, ông luôn chan hòa, đôn hậu nên ai cũng yêu mến. Bà con hàng xóm có điều gì xích mích đều nhờ ông giúp giải quyết.
Em rất yêu quý ông nội em, ông luôn là tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Em mong ước ông sống thật khỏe mạnh, sống mãi bên em.
Nguồn : http://thuthuat.taimienphi.vn/ta-ong-noi-cua-em-34364n.aspx
Trước cánh mạng tháng tám nhân dân ta sống trong cảnh lầm than bần cùng thế nhưng những con người ấy vẫn hiện với những phẩm chất tốt đẹp cao cả. Cái đói kia ,lũ thực dân kia không thể làm mất đi vẻ đẹp tâm hồn trong con người họ. Và cú như thế họ bước vào trang văn với vẻ đẹp tâm hồn mình. Nêú Ngô Tất Tố đã thành công khi khắc họa cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nghèo qua tác phẩm chị Dậu thì Nam Cao cũng góp phần giới thiệu thêm những mảnh đời nông dân khổ cực khác qua tác phẩm Lão Hạc. Đó là một ông lão gầy gò ,ốm yếu ngày đêm cố giữ lấy mảnh vườn để đợi con trai về.
Có thể nói hình ảnh người nông dân nghèo đói lầm than sống nơi bùn lầy nước đọng ,sống quay quắt cho qua ngày hay chính là đang cố gượng sống đã trở đi trở lại rất nhiều trong sáng tác của Nam Cao. Hình ảnh Lão Hạc là một trong số những tác phẩm ấy. Lão hiện lên chân thật đẹp đẽ với những tính cách của một người nông dân hiền lành chất phác. Nhưng thật trớ trêu khi xã hộ thực dân thối nát ấy đã nhẫn tâm cướp đi một con người như vậy. Đoạn trích Lão Hạc được trích trong truyện ngắn cùng tên nhưng có thể thấy đây là đoạn hay nhất. Đặc biệt nó thể hiện rõ vẻ đẹp trong tâm hồn của Lão Hạc.
Trước tiên Lão Hạc hiện lên với vẻ đẹp của môt người nông dân hiền lanh chất phác- một bản chất thật thà đáng quý và tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Vợ lão mất sớm còn con trai của lão thì đi vào Nam làm phu một đồn điền cao su. Lão hằng ngày mong ngóng con trai mà chăng có tin tức gì. Dù nghèo khổ nhưng lão vẫn nhất quyết giữ lại mảnh vườn cho con trai của mình. Hằng ngày lão phải ăn dáy ,ăn củ chuối ,và cả sung muối để tích góp tiền đợi con trai lão trở về. Ông chỉ có mỗi con chó là cậu vàng để bầu bạn. Tuy nghèo nhưng lão vẫn không bao giờ làm hại ai ,không có kiểu bần quá hóa liều. Lão vẫn giữ phẩm chất thật thà của một người nông dân. Lão thà ăn những thứ tồi tệ nhất còn hơn làm điều trái với lương tâm.
Không chỉ thế Lão Hạc còn hiện lên với vẻ đẹp của một người sống tình nghĩa và giàu lòng tự trọng. Ở làng ông tin tưởng ông giáo nhất ,chuyện gì cũng kể cho ông giáo để xin ý kiến. Môi khi ông giáo ngỏ ý giúp đỡ thì lão đều không chấp nhận ,kể cả đến khi ông chết đi ông cũng không vay của ai một đồng nào. Điều đó cho thấy lòng tự trọng của lão rất lớn. Hơn thế lão cũng biết nhà ông giáo cũng chẳng có gì hơn lão cả ,ông giáo còn con còn vợ thì phải lo nhiều không thể để ông ấy bận tâm đến mình mà khổ vợ con ông ấy được.
Trong suốt quãng đời của lão nếu không có cậu vàng bên cạnh thì lão buồn chết mất. Ngày qua ngày lão chỉ làm bạn với nó mà thôi. Ông không đủ ăn nhưng cũng cố gắng gượng nuôi nó ,có những lúc không còn cái ăn lão khẽ thì thầm với nó và dường như nó cũng hiểu cho nỗi khổ của ông lão. nhưng rồi đên một ngày kia khi lão không đủ sức nuôi nó nữa ông quyết định bán nó đi. Quyết định thật không dễ dàng đối với ông chút nào. Làm sao ông có thể nhẹ nhàng thanh thản khi bán đi một người bạn suốt ngày bên cạnh lão. nhưng khổ thay lão không còn cách nào khác nữa. Hơn thế cậu vàng là kỉ niệm duy nhất về đứa con trai của ông. Ông bán đi cậu vàng rồi tủi thân sang nhà ông giáo để kể giãi bày. Nhìn bộ dạng lão đáng thương lắm " cười mà như mếu ,đôi mắt ầng ậc nước ,mặt lão đột nhiên có rúm lại ,những nếp nhăn xô lại với nhau ,ép cho nước mắt chảy ra ,cái đẫu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít ,lão hu hu khóc". Đây quả là một đoạn văn hay miêu tả tột bậc sự đau khổ khi mất đi con vàng ,khi mà chính bản thân ông đã không giữ lời hứa với một con chó. Một tâm trạng tự trách mình bao trùm đầy dằn vặt trong tâm can ông lão.
Lão Hạc là một người giàu tình yêu thương cao cả và đức hi sinh. Nếu bán đi mảnh vườn ấy có lẽ lão sẽ không phải lo gì đến cuối đời nữa nhưng ông không làm thế. Tất cả những gì ông phải chịu cốt là để đợi con trai của mình trở về tận tay giao cho nó mảnh vườn và ngôi nhà cũ kĩ ấy. lão giữ để lấy vợ cho con trai mình. Dù cho con trai lão có bạt vô âm tín không biết còn sống hay đã chết nhưng lão vẫn hy vọng vẫn mong ,và vẫn giữ mảnh vườn cho đến hơi thở cuối cùng. Ngay cả khi ông chết đi ,ong cũng gửi ông giáo ba mươi đồng bạc phỏng khi ông chết và số còn lại là để khi con trai ông về thì nhờ ông giáo gửi giúp. Quả thật đức hy sinh cao cả ấy thật làm xúc động lòng người ,thật đáng trân trọng. Một tình cha cao " như núi Thái Sơn" của một vị người cha già suốt một đời nghèo nàn nhưng không bao giờ chịu ung sướng mà quên đi con tai mình.
Lão Hạc chết đi trong đau đớn nhưng cái chết của lão mang một vẻ đẹp khó quên trong lòng người đọc. Phải chăng đó là cái chết bất tử với thời gian vì khi nhắc đến tên ông thì ông ai là người không biết cả. Ông đã tìm đêns bả chó ,tìm đến cái chết chấm dứt cuộc sống đau khổ này ,chấm dứt những dằn vặt mà ông đã gây ra cho cậu vàng và hơn thế nữa để không động đến số tiền mà ông đã dành dụm cho con trai mình. Ông chết di nhưng chính cái chết ấy là sự chứng minh ,là sự tổng kết vẻ đẹp trong con người nông dân nghèo ấy. Thật đáng thương cho cái chết thương tâm của lão. nhà văn Nam Cao đã miêu tả cái chết của lão như sau: " tôi xồng xộc chạy vào ,lão Hạc đang vật vã ở trên giường ,đầu tóc rũ rượi ,quần áo xộc xệch ,hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo ,bọt mép sùi ra ,khắp người lại chốc chốc lại giật lên một cái ,nảy lên". Tại sao lão lại chọn cái chết đâu đớn đến như vậy ,phải chăng lão đang tự trừng phạt mình? Lão trừng phạt mình vì đã bán đi cậu vàng ,trừng phạt mình đã để con trai bỏ đi mà không có cách nào ngăn cản. Nhưng qua cái chết hay sự trừng phạt bản thân của Lão Hạc ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn lão quả thật đáng quý biết bao ,người nông dân nghèo ấy ra đi để lại biết bao sự thương xót.
Có thể nói nhà văn Nam Cao đã đem đến cho chúng ta một bức chân dung của người nông dân già nua khắc khổ nhưng giàu tình thương mến. Lão không chỉ giàu tình nghĩa với người mà còn giàu tình nghĩa với con vật như cậu vàng. Vì cậu vàng giống như một người bạn của lão chứ không phải là con vật nuôi nữa. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình cùng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc Nam Cao khắc họa lên vể đẹp của Lão Hạc ,một vẻ đẹp chất phác thật thà ,đôn hậu và giàu lòng tự trọng.
Với một vẻ ngoài lẩm cẩm, gàn dở và cô độc, thực chất lão Hạc là một nhân cách cao đẹp. Lão nhân hậu ngay cả với con chó. vắng con, "cậu Vàng" đã giúp lão bớt cô đơn. Vui buồn của "cậu Vàng" cũng là vui buồn của lão. Lão yêu con. Vợ mất sớm, lão dồn tình thương nuôi con khôn lớn. Lão giữ mảnh vườn cũng vì con. Lão tìm đến cái chết cũng vì con (khi chết lão vẫn còn tiền). Đây thực sự là một sự hi sinh vô cùng to lớn. Là một người tự trọng, lão chuẩn bị tiền cho cái chết của mình. Lão không muốn phiền lụy đến ai
Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật già dặn. Nam Cao tập trung khai thác thế giới bên trong của lão Hạc, chỉ ra đựơc những giằng xé, những day dứt, những chua xót, hối hận... của một nông dân chất phác, nhân hậu.
Bút pháp linh hoạt, xen kẽ được cách kể chuyện tỉnh táo, chân thực và màu sắc trữ tình, đồng thời, tăng hàm lượng triết lí về nhân tình, thế thái qua những suy nghĩ của "tôi" - ông giáo.
Đối với "cậu Vàng": Lão Hạc chăm sóc chó hết sức chu đáo (cho ăn cơm trong bát như một nhà giàu). Lão coi cậu Vàng như một đứa trẻ, đứa trẻ ấy trung thành với lão, làm lão bớt cô đơn. Gắn bó với cậu Vàng, khi buộc phải bán "cậu", mắt lăo đã "ầng ậng nước". Đặc biệt, lão cảm thấy mình là kẻ lừa dối bán "cậu Vàng".
Cái chết của lão Hạc có hai lí do:
Vì lão không còn kiếm được tiền (sau trận ốm, lại bão lụt).
Điều cơ bản nhất là lão sợ tiêu lạm vào tiền của con. Lão thà chết chứ không thể để con trắng tay.
Việc lão Hạc tìm đến cái chết cho thấy lão là người giàu tính thương yêu, giàu đức hi sinh (kể cả tính mạng mình). Lão là người "đói cho sạch, rách cho thơm).
Khi hiểu rõ ngọn ngành cái chết của lão Hạc, ông giáo khẳng định: "Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn", vì trước mắt "tôi" là một con người cao quý đã chết vì một mục đích cao quý.
Nhưng cuộc đời vẫn buồn theo nghĩa khác. Bởi lẽ tại sao những con người tốt như lão Hạc lại phải chết? mà chết một cách quá thê thảm. Cuộc đời có là mảnh đất sống cho người tốt nữa hay không? Ý nghĩa này của ông giáo là một tiếng kêu cảnh lính về một xã hội không quan tâm đến con người, chà đạp lên số phận của con người.
Trả lời : Bàn tròn là bàn ko méo là mèo ko bán .
#Thiên_Hy
====
====
- So sánh, cho thấy cái nhìn trong trẻo, hồn nhiên của con người
- Liệt kê: xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển, xanh trời, xanh ước mơ cho thấy sự tươi đẹp của quê hương đất nước. Đất nước ấy là nơi khởi nguồn, chắp cánh ước mơ.
Mẫu tử,thủ môn,sinh tử,thiên địa,song ngữ,hậu đãi,thiên nga,thiên sứ,...nói chung là nhiều lắm bạn ạ.Bạn có thể tham khảo ở từ điển Hán Việt hay trên mạng đó. Chúc bạn học giỏi!
- THIÊN: Trời
- ĐỊA: Đất
- CỬ: Cất
- TỒN: Còn
- TỬ: Con
- TÔN: Cháu
- LỤC: Sáu
- TAM: Ba
- GIA: Nhà
- QUỐC: Nước
- TIỀN: Trước
- HẬU: Sau
- NGƯU: Trâu
- MÃ: Ngựa
- CỰ: Cựa
- NHA: Răng
- VÔ: Chăng
- HỮU: Có
- KHUYỂN: Chó
- DƯƠNG: Dê
- QUY: Về
- TẨU: Chạy
- BÁI: Lạy
- QUỴ: Quỳ
- KHỨ: Đi
- LAI: Lại
- NỮ: Gái
- NAM: Trai
- ĐÁI: Đai
- QUAN: Mũ
- TÚC: Đủ
- ĐA: Nhiều
- ÁI: Yêu
- TĂNG: Ghét
- THỨC: Biết
- TRI: Hay
- MỘC: Cây
- CĂN: Rễ
- DỊ: Dễ
- NAN: Khôn (khó)
- CHỈ: Ngon
- CAM: Ngọt
- TRỤ: Cột
- LƯƠNG: Rường
- SÀNG: Giường
- TỊCH: Chiếu
- KHIẾM: Thiếu
- DƯ: Thừa
- SỪ: Bừa
- CÚC: Cuốc
- CHÚC: Đuốc
- ĐĂNG: Đèn
- THĂNG: Lên
- GIÁNG: Xuống
- ĐIỀN: Ruộng
- TRẠCH: Nhà
- LÃO: Già
- ĐỒNG: Trẻ
- TƯỚC: Sẻ (chim Sẻ)
- KÊ: Gà
- NGÃ: Ta
- THA: Khác (người khác)
- BÁ: Bác
- DI: Dì
- DIÊN: Chì
- TÍCH: Thiếc
- DỊCH: Việc
- CÔNG: Công
- HÀN: Lông
- DỰC: Cánh
- THÁNH: Thánh
- HIỀN: Hiền
- TIÊN: Tiên
- PHẬT: Bụt
- LẠO: Lụt
- TRIỀU: Triều
- DIÊN: Diều
- PHƯỢNG: Phượng
- TRƯỢNG: Trượng
- TẦM: Tầm
- BÀN: Mâm
- TRẢN: Chén
- KIỂN: Kén
- TY: Tơ
- MAI: Mơ
- LÝ: Mận
- TỬ: Cặn
- THANH: Trong
- HUNG: Lòng
- ỨC: Ngực
- MẶC: Mực
- CHU: Son
- KIỀU: Non
- THỤC: Chín
- THẬN: Ghín
- LIÊM: Ngay
- TỬ: Tây
- MỘ: Mến
- CHÍ: Đến
- HỒI: Về
- HƯƠNG: Quê
- THỊ: Chợ
- PHỤ: Vợ
- PHU: Chồng
- NỘI: Trong
- TRUNG: Giữa
- MÔN: Cửa
- ỐC: Nhà
- ANH: Hoa
- ĐẾ: Rễ
- PHỈ: Hẹ
- THÔNG: Hành
- THƯƠNG: Xanh
- BẠCH: Trắng
- KHỔ: Đắng
- TOAN: Chua
- SÔ: Ngựa
- GIÁ: xe giá
- THẠCH: Đá
- KIM: Vàng
- CÙ: Đường
- HẠNG: Ngõ
- ĐẠC: Mõ
- CHUNG: Chuông
- PHƯƠNG: Vuông
- TRỰC: Thẳng
- TRÁC: Đẳng
- HÀM: Hòm
- KHUY: Dòm
- SÁT: xét
- MIỆN: Lét
- CHIÊM: Xem
- MUỘI: Em
- TỶ : Chị
- THỊ: Thị
- ĐÀO:Điều
- CÂN:Rìu
- PHỦ: Búa
- CỐC: Lúa
- MA: Vừng
- KHƯƠNG: Gừng
- GIỚI:Cải
- THỊ: Phải
- PHI: Chăng
- DUẪN: Măng
- NHA: Mống
- CỔ: Trống
- CHINH: Chiêng
- KHUYNH: Nghiêng
- NGƯỠNG: Ngửa
- BÁN: Nửa
- SONG: Đôi
- NHĨ: Mồi
- LUÂN: Chỉ
- HẦU: Khỉ
- HỔ: Hùm
- ĐÀM: Chum
- CỮU: Cối
- MỘ :Tối
- TRIÊU: Mai
- TRƯỜNG: Dài
- ĐOẢN: Ngắn
- XÀ: Rắn
- TƯỢNG: Voi
- VỊ :Ngôi
- GIAI: Thứ
- CỨ: Cứ
- Y:y
- QUỲ: Rau Quỳ
- HOẮC: Rau Hoắc
- CÁC: Gác
- LÂU: Lầu
- THỊ: Chầu
- CA: Hát
- PHIẾN: Quạt
- DU: Dù
- THU: Mùa Thu
- HẠ: Mùa Hạ
- BĂNG: Giá
- VŨ: Mưa
- TIỄN: Đưa
- NGHINH:Rước
- THUỶ: Nước
- NÊ: Bùn
- KHỐI: Hòn
- ĐÔI: Đống
- KHIẾM: Súng
- LIÊN :Sen
- DANH: Tên
- TÁNH: Họ
- CẤU: Đó
- THUYỀN: Nơm
- PHẠN: Cơm
- TƯƠNG: Nước tương
- XÍCH: Thước
- PHÂN: Phân
- CÂN: Cân
- ĐẨU: Đấu
- HÙNG: Gấu
- BÁO: Beo
- MIÊU: Mèo
- THỬ: Chuột
- TRÀNG: Ruột
- BỐI: Lưng
- LÂM: Rừng
- HẢI: Bể
- TRÍ: Để
- BÀI: Bày
- CHÍNH: Ngay
- TÀ: Vạy
- THỊ: Cậy
- KIỀU: Nhờ
- KỲ: Cờ
- BÁC: Bạc
- LÃN: Nhác
- TRẮC: Nghiêng
- TRÌNH: Chiềng
- THUYẾT: Nói
- HÔ: Gọi
- TRIỆU: Vời
- SÁI: Phơi
- CHƯNG: Nấu
- DUỆ: Gấu (áo)
- KHÂM: Tay (áo)
- PHÙNG: May
- CHỨC: Dệt
- HÀI: Miệt
- LÝ: Giày
- SƯ: Thầy
- HỮU: Bạn
- HẠC: Cạn
- DẬT: Đầy
- MY: Mày
- MỤC: Mắt
- DIỆN: Mặt
- ĐẦU: Đầu
- TU: Râu
- PHÁT: Tóc
- THIỀM: Cóc
- THIỆN: Lươn
- OÁN: Hờn
- HUYÊN: Dứt
- CHỨC: chức
- QUAN: Quan
- LAN: Hoa Lan
- HUỆ: Hoa Huệ
- GIÁ: Mía
- DA: Dừa
- QUA: Dưa
- LỆ: Vải
- NGẢI: Ngải
- BỒ: Bồ
- MÃI: Mua
- MẠI: Bán
- VẠN: Vạn
- THIÊN: Nghìn
- THƯỜNG: Đền
- BÁO: Trả
- THUÝ: Chim Trả
- ÂU: Cò
- LAO: Bò
- THÁI: Rái
- NGỐC: Dại
- NGU: Ngây
- THẰNG: Dây
- TUYẾN: Sợi
- TÂN: Mới
- CỬU: Lâu
- THÂM: Sâu
- THIỂN: Cạn
- KHOÁN: Khoán
- BI: Bia
- BỈ: Kia
- Y: Ấy
- KIẾN: Thấy
- QUAN: Xem
- TU: Nem
- BÍNH: Bánh
- TỴ: Lánh
- HỒI: Về
- PHIỆT: Bè
- TÙNG: Bụi
- PHỤ: Đội
- ĐỀ: Cầm
- NGOẠ: Nằm
- XU: Rảo
- HIẾU: Thảo
- TRUNG: Ngay
- THẦN: Ngày
- KHẮC: Khắc
- BẮC: Bắc
- NAM: Nam
- CAM: Cam
- QUẤT: Quýt
- ÁP: Vịt
- NGA: Ngan
- CAN: Gan
- ĐẢM: Mật
- THẬN: Cật
- CÂN: Gân
- CHỈ: Ngón chân
- QUĂNG: Cánh tay
- TỈNH: Tỉnh
- HÀM: Say
- QUYỀN: Tay quyền
- CHỦNG: gót
- QUÝ: rối
- NGUYÊN: Đầu
- PHÚ: Giàu
- ÂN: Thịnh
- DÕNG: Mạnh
- LƯƠNG: Lành
- HUYNH: Anh
- TẨU: Chị dâu
- CHÍ: chí
- TRUNG: Lòng
- LONG: Rồng
- LÝ: Cá gáy
- KỲ: Cây
- BẠNG: Trai
- KIÊN: Vai
- NGẠCH: Trán
- QUÁN: Quán
- KIỀU: Cầu
- TANG: Dâu
- NẠI: Mít
- NHỤC: Thịt
- BÌ: Da
- GIA: cà
- TÁO: Táo
- Y: Áo
- LÃNH: Tràng
- HOÀNG: Vàng
- XÍCH: Đỏ
- THẢO: Cỏ
- BÌNH: Bèo
- DI: Cá nheo
- LỄ: cá chuối
- DIÊM: Muối
- THÁI: Rau
- LANG: Cau
- TỬU: rượu
- ĐỊCH: Sáo
- SINH: Sênh
- KHA: Anh
- THÚC: Chú
- NHŨ: vú
- THẦN: Môi
- HOÀN: Cá Trôi
- TỨC: Cá Diếc
- BÍCH: Biếc
- HUYỀN: Đen
- THẦM: Tin
- THƯỞNG: Thưởng
- TRƯỚNG: Trướng
- DUY: Màn
- LOAN: Loan
- HẠC: Hạc
- ĐỈNH: Vạc
- OA :Nồi
- XUY: Xôi
- CHỬ: Nấu
- XÚ: Xấu
- TIÊN: Tươi
- TIẾU: Cười
- SÂN: Giận
- SẮT: Rận
- DĂNG: Ruồi
- ĐẠI: Đồi mồi
- NGUYÊN: con giải
- BỐ: Vải
- LA: The
- THIỀN: Ve
- SUẤT: Dế
- LIỄM: Khế
- CHANH: Chanh
- CANH: Canh
- CHÚC: Cháo
- THƯỢC: gáo
- LƯ: Lò
- ĐỘ: Đò
- TÂN: Bến
- NGHỊ: Kiến
- PHONG: Ong
- HÀ: Sông
- LÃNH: Núi
- CHẨM: Gối
- CÂN: Khăn
- KHÂM: Chăn
- NHỤC: Nệm
- THẨM: Thím
- CÔ: Cô
- QUYỆT: Cá rô
- THÌ: Cá cháy
- ĐỂ: Đáy
- NGÂN: Ngần
- QUÂN: quân
- CHÚNG: Chúng
- SÚNG: Súng
- KỲ: Cờ
- SƠ: Sơ
- CỰU: Cũ
- VŨ: Vũ
- VĂN: Văn
- DÂN: Dân
- XÃ: Xã
- ĐẠI: Cả
- TÔN: Cao
- TRÌ: Ao
- TỈNH: Giếng
- KHẨU: Miệng
- DI: Cằm
- TÀM: Tằm
- DÕNG: Nhộng
- TỐC: Chống
- TRÌ: Chầy
- VÂN: Mây
- HOẢ: Lửa
- THẦN: Chửa
- DỤC: Nuôi
- VĨ: Đuôi
- LÂN: Vẩy
- HUY: Vẫy
- CHẤP: Cầm
- NIÊN: Năm
- NGUYỆT: Tháng
- MINH: Sáng
- TÍN: Tin
- ẤN: In
- THUYÊN: Cắt (khắc)
- VẬT: Vật
- NHƠN: Người
- HY: Chơi
- HÍ: Cợt
- CƠ: Chốt
- PHU: Chày
- TÁ: Vay
- HOÀN: Trả
- GIÃ: Giã
- MÀNH: Mành
- VU: Quanh
- KÍNH: Tắt
- THIẾT: Cắt
- THA: Mài
- VU: Khoai
- ĐẬU: Đậu
- LĂNG: Củ Ấu
- THỊ: Trái hồng
- CUNG: Cung
- NỖ: cái nỏ
- PHỦ: Chõ
- ĐANG: Cái xanh
- CHI: Cành
- DIỆP: Lá
- TOẢ: Khoá
- KIỀM: Kiềm
- NHU: Mềm
- KÍNH: Cứng
- LẬP: Đứng
- HÀNH: Đi
- UY: Uy
- ĐỨC: Đức
- CẤP: Bực
- GIAI: Thềm
- GIA: Thêm
- GIẢM: Bớt
- HƯỚC: Cợt
- THÀNH: Tin
- DỰ: Khen
- DAO: Ngợi
- QUÁN: Tưới
- BÍNH: Soi
- THẦN: Tôi
- CHỦ: Chúa
- VŨ: Múa
- PHI: Bay
- TRINH: Ngay
- TĨNH: Lặng
- XƯNG: Tặng
- THÀNH: Nên
- VONG: Quên
- KÝ: Nhớ
- THÊ: Vợ
- THIẾP: Hầu
- BÀO: Bầu
- ỦNG: Ống
- TÍCH: Xương sống
- XOANG: Lòng
- HƯ: Không
- THỰC: Thật
- THIẾT: Sắt
- ĐỒNG: Đồng
- ĐÔNG: Đông
- SÓC: Bắc
- TRẮC: Trắc
- BÌNH: Bằng
- BẤT: Chăng
- DA: Vậy
- DƯỢC: Nhảy
- TIỀM: Chìm
- CHÂM: Kim
- NHẬN: Nhọn
- TOÀN: Trọn
- TỊNH: Đều
- ĐÀI: Rêu
- CẤU: Bụi (nhơ)
- VỊNH: Lội
- THOAN: Trôi
- XUY: Xôi
- MỄ: Gạo
- HỒ: Cáo
- LỘC: Hươu
- HOÀI: Cưu mang
- HIỆP: Cắp
- ỦNG: Lấp
- LƯU: Trôi
- CHUỲ: Dùi
- TRƯỢNG : Gậy
- BÔN: Chậy
- VÃNG: Qua
- VIỄN: Xa
- HỒNG: Cả (lớn)
- CHÁ: Chả
- TRÀ: Chè
- NGHỆ: Nghề
- TÀI: Của
- TRỢ: Đũa
- CHUỶ: Môi (cái vá)
- KHÔI: Vội
- PHẤN: Phấn
- HÀM: Mặn
- LẠT: Cay
- DOANH: Đầy
- PHẠP: Thiếu
- BÀO: Áo
- BỊ: Chăn
- ĐÌNH: Sân
- KHUYẾT: Cửa
- DỰNG: Chửa
- THAI: Thai
- CAI: Cai
- KẾ: Kể
- TẾ: Rể
- HÔN: Dâu
- CÚ: Câu
- THƠ: Sách
- ĐỔ: Vách
- TƯỜNG: Tường
- PHƯỜNG: Phường
- PHỐ: Phố
- BỘ: Bộ
- PHIÊN: Phiên
- QUYỀN: Quyền
- TƯỚC: Tước
- ĐẮC: Được
- VI: Làm
- THAM: Tham
- DỤC: Muốn
- QUYỂN: Cuốn
- TRƯƠNG: Trương ra
- SƯƠNG: Sương
- THỬ: Nắng
- HẠO: Sáng trắng
- HINH: Thơm
- CHIÊM: Rơm
- LẠP: Hạt
- LƯƠNG: Mát
- BÃO: No
- KHỐ: Kho
- QUÂN: Vựa
- HÁN: Đứa
- LANG: Chàng
- HOÀNH: Ngang
- KHOÁT: Rộng
- BA: Sóng
- HƯỞNG: Vang
- THÊ :Thang
- KỶ: Ghế
- MẪU: Mẹ
- NHI: Con
- VIÊN: Tròn
- NHUỆ: Nhọn
- SOẠN: Dọn
- THU: Thâu
- CHÂU: Châu
- HUYỆN: Huyện
- TỤNG: Kiện
- MINH: Kêu
- TÙNG: Theo
- SỬ: Khiến
- MIỆN: Mũ miện
- TRÂM: Cây trâm
- ĐẢO: Đâm
- ĐÀO :Đãi
- THÁI: Sảy
- NGHIÊN: Nghiền
- LIÊN: Liền
- TỤC: Nối
- ĐOAN: Mối
- PHÁI: Dòng
- LUNG: Lồng
- QUỸ: Sọt
- ĐỐ: Mọt
- TRÙNG: Sâu
- CÚ: Câu
- ĐIỂM: Chấm
- THỐ: Giấm
- DU: Dầu
- PHÙ: Trầu
- TOÁN: Tỏi
- KHOÁI: Gỏi
- HÀ: Tôm
- KIÊM: Gồm
- PHỔ: Khắp
- HẠ: Thấp
- CAO: Cao
- CAO: Sào
- ĐÀ: Lái
- TRẠI: Trại
- THÔN: Thôn
- NỘN: Non
- KHỐNG: Dại
- PHÁI: Phái
- TÔNG: Dòng
- TÀI: Trồng
- NGẢI: Cắt
- SẮC: Gặt
- ƯU: Cày
- TÍCH: Gầy
- PHÌ: Béo
- XẢO: Khéo
- TINH: Ròng
- PHÙNG: Họ Phùng
- MẠNH: Họ Mạnh
- TÍNH: Gộp
- LƯỢNG: Tin
- KIÊN: Bền
- XÁC: Thật
- TẤT: Ắt
- TU: Tua
- TỰ: Chùa
- BƯU: Dịch
- BÍCH: Ngọc Bích
- CƠ: Sao Cơ
- ĐÊ: Bờ
- CẢNH: Cõi
- VẤN: Hỏi
- THIẾT: Bày
- THƯ: Lầy
- TÁO: Ráo
- THƯƠNG: Giáo
- KIẾM: Gươm
- LIÊM: Liềm
- TRỬU: Chổi
- QUỸ: Cũi (hòm)
- SƯƠNG: Rương
- HƯƠNG: Hương
- LẠP: Sáp
- THÁP: Tháp
- ĐÌNH: Đình
- KHU: Mình
- MẠO: Mặt
- MẬT: Nhặt
- SƠ: Thưa
- ÁN: Trưa
- THẦN: Sớm
- CẢM: Cám
- PHU: Tin
- BỘC: Min (tôi)
- TÊ: Đứa
- TÍCH: Chứa
- SUNG: Đầy
- HẬU: Dầy
- KHINH: Nhẹ
- THẾ: Thế
- TÀI: Tài
- ĐÀI: Đài
- MIỄU: Miễu
- KIỆU : Kiệu
- TRI: Xe
- THÍNH: Nghe
- ĐỔ: Thấy
- THỦ: Lấy
- BAN: Ban
- TỪ: Khoan
- CẤP: Kíp
- TƯ: Níp
- ĐAN: Giai
- CỨC: Gai
- NHÂN: Hạt
- ĐẠM: Lạt
- NÙNG: Nồng
- ƯỚC: Mong
- TƯỞNG: Nhớ
- TRÁI: Nợ
- DUYÊN: Duyên
- NGHIỄN: Nghiên
- TIÊN: Giấy
- GIÃ: Vậy
- TAI! Thay
- HẠNH: May
- KHAM: Khá
- QUYỀN: Má
- NHĨ: Tai
- THUỲ: Ai
- MỖ: Mỗ
- SÀO: Tổ
- CỐC: Hang
- ANG: Nồi rang
- BỒN: Chậu
- CỰU: Cậu
- DA: Ông (cha)
- XUYÊN: Sông
- NHẠC: Núi
- NGÔN: Nói
- TÁC: Làm
- LAM: Chàm
- UẤT: Nghệ
- BỄ: Vế đùi
- YÊU: Lưng
- GIÁC: Sừng
- ĐỀ:Móng
- ẢNH: Bóng
- HÌNH: Hình
- KINH: Kinh
- SỬ: Sử
- THỦ: Giữ
- DU: Chơi
- CHIÊU: Vời
- TỰU: Tới
- CẢI: Đổi
- DI: Dời
- TRUỴ: Rơi
- ĐIÊN: Ngã
- KÝ: Đã
- TẰNG: Từng
- HỶ: Mừng
- GIA: Tốt
- NGHIỄNG: Đồng cốt
- VU: Thầy mo
- KHUẤT: Cốt
- THÂN: Duỗi
- TUẾ: Tuổi
- THÌ: Giờ
- TINH: Cờ
- TẢN: Tán
- HY: Hơn hớn
- XÁN: Rỡ ràng
- THANG: Vua Thang
- VŨ: Vua Vũ
- PHỦ: Phủ
- CUNG: Cung
- ĐÔNG: Mùa Đông
- LẠP: Tháng Chạp
- HỢP: Hạp
- LY: Lìa
- MÊ: Mê
- NGỘ: Biết
- CẨM: Vóc
- SA: The
- PHÚ: Che
- BAO: Bọc
con dê
xúc phạm vừa thôi chứ