K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

11 tháng 5

 Nội dung cải cách của Khúc Thừa Hạo:

+ Chia, đặt lại các lộ, phủ, châu và xã ở các xứ.

+ Thực hiện: bình quân thuế ruộng cho công bằng, tha bỏ lực dịch cho dân bớt khổ

+ Lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán để quản lí cho thống nhất.

- Ý nghĩa:

+ Củng cố chính quyền tự chủ của người Việt.

+ Xây dựng được một chính quyền dân tộc thống nhất, vững mạnh từ trung ương đến các làng xã, khắc phục được tính phân tán quyền lực.

+ Bồi dưỡng sức dân; thúc đẩy sức sản xuất đồng thời tập hợp được mọi lực lượng yêu nước để bảo vệ nền tự chủ.

+ Đặt nền móng, tạo điều kiện để cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn (năm 938).

11 tháng 5

Nét độc đáo trong kế sách đánh giặc của Ngô Quyền trong trận đánh trên Sông Bạch Đằng năm 938:

+) Chủ động chọn địa điểm quyết chiến là Sông Bạch Đằng rồi cho quân xây dựng trận địa cọc ngầm.

+) Chiến thuật lợi dụng sự lên xuống của thủy triều.

11 tháng 5

Nét độc đáo trong kế sách đánh giặc của Ngô Quyền trong trận đánh trên Sông Bạch Đằng năm 938:

 - Lợi dụng thủy triều , Ngô Quyền sai binh lính đóng cọc lớn vạt nhọn đầu bít sắt , xây dựng thành một trận địa cọc ngầm .

 - Giả thua để dụ địch đuổi theo, nước biển rút , cọc nhô lên khiến cho thuyền địch bị hỏng , quân ta xông lên với những chiếc thuyền nhỏ dễ dàng luồn lách khỏi bãi cọc đánh tan nát quân địch 

15 tháng 5
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán vào năm 938 dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền, cách tổ chức đánh giặc của ông đã đóng góp quan trọng vào chiến thắng cuối cùng của quân Việt. Dưới đây là những điểm chính của cách tổ chức này:

1. **Sử dụng ưu điểm địa lý**: Ngô Quyền đã tận dụng sông Bạch Đằng để tạo ra một chiến thuật đánh giặc hiệu quả. Ông đã cho xây dựng các cọc tre và chuỗi rừng cây để gây trở ngại cho hải quân Nam Hán khi chúng tiến vào sông. Khi đợt lớn của đối phương đổ bộ, ông đã phát động cuộc tấn công bất ngờ từ hai phía, khiến quân Nam Hán rơi vào bẫy.

2. **Tiến hành phản công táo bạo**: Thay vì chờ đợi quân Nam Hán tiến vào nội địa và ngăn chặn tại đó, Ngô Quyền đã chủ động tiến công và đánh tan hải quân Nam Hán khi chúng đang trên đường tiến vào sông Bạch Đằng. Điều này ngăn chặn kẻ thù từ việc thiết lập lực lượng vững chắc trên lãnh thổ Việt Nam.

3. **Xây dựng lòng yêu nước và sự đoàn kết dân tộc**: Ngô Quyền đã liên minh với các tộc người bản địa và tạo ra lòng yêu nước và đoàn kết mạnh mẽ giữa các tầng lớp dân chúng. Điều này giúp tạo sự đồng lòng trong cuộc kháng chiến và đẩy lùi quân xâm lược.

Những chiến thuật và cách tổ chức đánh giặc của Ngô Quyền đã chứng minh được hiệu quả và dẫn đến chiến thắng quan trọng trong lịch sử Việt Nam, khép lại một thời kỳ chống lại sự xâm lược của Ngô xâm lăng.
 
11 tháng 5

Cách tổ chức đánh giặc của Ngô Quyền trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán vào năm 938 được tổ chức một cách thông minh và hiệu quả. Ông đã tận dụng địa lợi của sông Bạch Đằng, một địa điểm chiến lược có địa hình uốn lượn, có những cửa ngõ nước hẹp và nông. Ngô Quyền đã sử dụng thuyền thấp nước để di chuyển linh hoạt qua những khu vực nước cạn và bãi cát thấp, tạo điều kiện cho quân của mình tiến hành đánh phá quân xâm lược từ những hướng không ngờ. 

Ngô Quyền cũng đã khai thác triệt để yếu điểm của quân Nam Hán trong việc chỉ có thể chiếm được vùng đất trên sông mà không thể chiếm được các khu vực ven biển. Nhờ vào sự tổ chức linh hoạt và chiến thuật, Ngô Quyền đã đánh bại quân xâm lược và giành lại độc lập cho dân tộc. Đây thực sự là một chiến thắng đậm đà và quyết định trong lịch sử của Việt Nam.

10 tháng 5

Văn hóa” là gì? Ở trang cuối của cuốn sổ ghi chép những bài thơ trong tập “Nhật ký trong tù” (1942 - 1943), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.

Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

Ngay từ đầu, rừng được xác định là một địa bàn sinh sống quan trọng của dân tộc Việt Nam. Người con trai trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ đã lên ngôi ở Phong Châu (Phú Thọ), là một vùng rừng núi, lấy hiệu là Hùng Vương và lập ra quốc gia Văn Lang.

Các biểu hiện văn hóa của người Việt cổ như trầu cau (thời Hùng Vương thứ tư - Sự tích trầu cau); tay gấu, nem công chả phượng (thời Hùng Vương thứ sáu - Sự tích bánh chưng bánh giầy); voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao (thời Hùng Vương thứ mười tám - Chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh) được người dân phát hiện ra ở rừng.

Sách “Hoài Nam tử” của hoàng thân nhà Hán là Hoài Nam vương Lưu An cho hay nguyên nhân nhà Tần xâm lược nước ta là do “ham sừng tê, ngà voi, lông trả, ngọc châu và ngọc cơ của người Việt, bèn sai Đồ Thư mang 50 vạn binh chia làm 5 đạo…”.

Trên trống đồng Đông Sơn, một linh khí của thời Văn Lang cũng có khắc những con vật ở rừng như chim, thú như hươu nai, cáo, chim lạc... Vào mùa lễ hội, người dân Văn Lang cũng đội những chiếc mũ bằng lông chim rừng.

Văn hóa biển

Qua các bằng chứng khảo cổ học, nhân dân Văn Lang thời các Hùng Vương đã ngang dọc Biển Đông. Đầu tiên, điều này thể hiện bởi các nền văn hóa biển nổi tiếng thời tiền sử - sơ sử tại Việt Nam là Văn hóa Soi Nhụ, Văn hóa Hạ Long… với những di chỉ “đống vỏ sò” hay “cồn sò điệp”.

Theo “Lĩnh nam chích quái”, Lạc Long Quân, Thủy Tổ dân tộc Việt là người có công diệt Ngư tinh vùng Biển Đông để nhân dân Lĩnh Nam được an cư lạc nghiệp. Sau đó, cũng chính Lạc Long Quân đã dẫn các con về miền biển để làm chủ Biển Đông…

PGS.TS Lâm Thị Mỹ Dung (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết: “Thời Đông Sơn thể hiện rất rõ, cư dân Đông Sơn phải chiếm lĩnh được biển họ mới giao thương, trao đổi được các trống đồng”.

Văn hóa Tết

 

Do nhu cầu canh tác nông nghiệp, người Việt cổ đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc “giao thời”). Trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên đán. Sau này nó được biết đến là Tết Nguyên đán, tức là Tết cổ truyền của người Việt.

Sách “Giao Chỉ Chí” của Trung Quốc cũng có đoạn viết về Tết. Sách viết: “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này”.

Trong khi đó, ngày đón năm mới của Trung Quốc bắt đầu bằng việc xua đuổi con “Niên” (năm). Theo truyền thuyết, ngày xửa ngày xưa ở Trung Quốc có con thú dữ gọi là “Niên”, trên đầu mọc sừng, hết sức hung dữ.

Con “Niên” quanh năm suốt tháng sống dưới đáy biển, cứ vào đầu năm mới thì nó mới lên bờ để giết súc vật và hại người. Tuy nhiên, con vật này sợ tiếng ồn nên người Trung Quốc đã dùng pháo nổ đốt để xua đuổi. Bởi vậy, những ngày đầu năm trong tâm thức của người Trung Quốc xưa là một nỗi sợ chứ không phải là mừng vụ mùa như người Việt cổ.

Trong dương lịch, ngày 1/1, Ngày Năm mới (New Year's Day) ở phương Tây chỉ đơn giản là ngày đầu tiên của tháng Tháng Một (January). Đó là vị thần Janus, người được phác họa có hai đầu, một trông về phía trước, một trông về phía sau, biểu tượng cho sự chuyển giao giữa cái cũ và cái mới.

Những nét văn hóa khác

 

Theo sử cũ thì đến khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, 15 vùng Việt Cổ đã chịu thừa nhận quyền lực chung của người thủ lĩnh bộ Văn Lang và tôn xưng là Hùng Vương.

Điều này được phản ánh đầy đủ tại “Hùng đồ thập bát diệp thánh vương ngọc phả cổ truyền” được lưu giữ vào năm Hoằng Định thứ nhất (năm 1600) đời vua Lê Kính Tông nhà Hậu Lê.

Theo các tài liệu thì “Văn” là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người… Còn “Lang” là sông. Ghép lại, Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.

Người Văn Lang cũng được gọi là người Việt. Chữ Việt có hai nghĩa. Chữ Việt bộ Mễ nghĩa là thời bình người Việt làm nghề nông sinh sống, lúa gạo trữ trong kho. Chữ Việt bộ Tẩu nghĩa là thời chiến người Việt cầm vũ khí đi chống xâm lăng để giữ nước.

Sách “Việt giám thông khảo tổng luận” chép về việc quản lí đất nước thời Văn Lang chủ yếu theo tục lệ cổ truyền: “Dân không có thói gian dối”, “buộc nút dây mà làm chính sự”.

Dân chúng thời Hùng Vương thạo nghề bắt cá, chài lưới (điển hình bằng tục vẽ mình), nghề nông (truyện bánh chưng, bánh giầy – Lang Liêu; chuyện dưa hấu - Mai An Tiêm), nghề luyện kim (truyện Thánh gióng - Phù Đổng Thiên Vương), và nghề buôn bán (truyện Chử Đồng Tử, Mai An Tiêm).

Chữ Khoa Đẩu là thứ chữ của Bách Việt sử dụng và đang được nghiên cứu. Đó là một thứ có hình dáng như những con nòng nọc nên còn gọi là chữ nòng nọc.

Trống đồng ngoài chức năng là một nhạc khí, còn tượng trưng cho quyền lực của các vị thủ lĩnh người Việt ngày xưa. Bên cạnh đó, nhuộm răng đen, một hình thức chống sâu răng của người Việt cổ, đã trở thành tục lệ chung.

Về văn hóa tín ngưỡng, một số ý kiến cho rằng chuyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung thời Hùng Vương thứ mười tám phản ánh Phật giáo tiểu thừa truyền bá vào nước ta.

Việt Nam có các di sản về thời đại Hùng Vương được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đó là hát Xoan, những điệu hát có từ thời Hùng Vương, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo tồn khẩn cấp năm 2011.

Tiếp đó, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của việc thờ cúng tổ tiên của người Việt, được công nhận là di sản văn hóa tâm linh tiêu biểu của nhân loại vào năm 2012.

Bên cạnh đó, Mẫu Thượng Ngàn theo tương truyền là Quế Hoa Mị Nương, con gái Hùng Vương. Ngày 1/12/2016, di sản "Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt" cũng đã chính thức được UNESCO ghi danh tại danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

10 tháng 5

Về chính sách bóc lột kinh tế: Thi hành chính sách bóc lột bằng các thứ thuế (nặng nhất là thuế sắt và muối), chính sách cống nạp nặng nề, cướp ruộng đất, buộc dân ta cày cấy thực hiện đồn điền, nắm độc quyền sắt và muối.
 

10 tháng 5

Kinh tế: Chúng ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân ta bằng nhiều hình thức

 

10 tháng 5

B nha bạn