K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(2 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích hình tượng bà má Hậu Giang trong văn bản trên. Bài đọc:      ​Má già trong túp lều tranh Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô      Một mình má, một nồi to Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười...   Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt?   Má già run, trán toát mồ hôi      ​Chạy đâu? Thôi chết, chết rồi! Gót giày đâu đã...
Đọc tiếp

(2 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích hình tượng bà má Hậu Giang trong văn bản trên.

Bài đọc:

     ​Má già trong túp lều tranh
Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô
     Một mình má, một nồi to
Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười...
  Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt?
  Má già run, trán toát mồ hôi
     ​Chạy đâu? Thôi chết, chết rồi!
Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
  Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
  Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
     ​Rung rinh bậc cửa tre gầy
Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!

  Hắn rướn cổ, giương mi, trợn mắt
  Như hổ mang chợt bắt được mồi
     ​Trừng trừng trông ngược trông xuôi
Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.
  Hắn rống hét: “Con bò cái chết!
  Một mình mày ăn hết này sao?
     ​Đừng hòng che được mắt tao
Khai mau, du kích ra vào nơi đâu?
     ​Khai mau, tao chém mất đầu!”
Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô
  Má ngã xuống bên lò bếp đỏ
  Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng
     ​Má già nhắm mắt, rưng rưng
“Các con ơi, ở trong rừng U Minh
  Má có chết, một mình má chết
  Cho các con trừ hết quân Tây!”
     ​Thằng kia bỗng giậm gót giày
Đạp lên đầu má: “Mẹ mày, nói không?”
     ​Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
“Các con ơi! Má quyết không khai nào!”
     ​Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây
  Má hét lớn: “Tụi bay đồ chó!
  Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
     ​Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng!
     ​Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm!
     ​Thân tao chết, dạ chẳng sờn!”
Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!

     ​Một dòng máu đỏ lên trời
Má ơi, con đã nghe lời má kêu!
     ​Nước non muôn quỷ ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.

(Bà má Hậu Giang, Tố Hữu)

0
(4 điểm) Đọc văn bản sau:                   XUÂN SẦU (II)     Trăm hoa đua nở đẹp hơn cười     Một cái oanh vàng uốn lưỡi chơi     Phong cảnh chiều xuân vui vẻ thế     Xuân sầu chi để bận riêng ai!        Mười lăm năm trước xuân xanh Tri Tri cất tiếng, Hữu Thanh gọi đàn     Tình nguyện vọng chứa chan non nước     Bạn tri âm man mác giời mây        Nở gan một cuộc cười...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau:

                  XUÂN SẦU (II)

    Trăm hoa đua nở đẹp hơn cười
    Một cái oanh vàng uốn lưỡi chơi
    Phong cảnh chiều xuân vui vẻ thế
    Xuân sầu chi để bận riêng ai!
       Mười lăm năm trước xuân xanh
Tri Tri cất tiếng, Hữu Thanh gọi đàn
    Tình nguyện vọng chứa chan non nước
    Bạn tri âm man mác giời mây
       Nở gan một cuộc cười say
Đường xa coi nhẹ gánh đầy như không
    Phận nam nhi tang bồng là chí
    Chữ trượng phu ý khí nhường ai
       Non sông thề với hai vai
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son
    Dư đồ rách, nước non tô lại
    Đồng bào xa, trai gái kêu lên
       Doanh hoàn là cuộc đua chen
Rồng Tiên phải giống ngu hèn, mà cam!
    Tiếng gọi bạn nửa năm vừa dứt
    Sức thua giời, trăm sức mà chi
       Tình duyên đến lúc phân ly
Giang sơn bảng lảng, tu mi thẹn thùng
    Xếp ngọn bút, đau lòng son sắt
    Giã đàn văn, lánh mặt phong sương
       Cho hay trần luỵ đa mang
Trăm năm duyên nợ văn chương còn nhiều
    Thuyền một lá buông liều sông nước
    Lái tám năm xuôi ngược dòng sông
       Nực cười trận gió đông phong
Làm cho chú lái không công mất thuyền
    Ngồi nghĩ lại mối duyên sao lạ
    Dẫu kêu rằng món nợ cũng hay
       Trần hoàn trả trả vay vay
Kể chi công nợ, cho rầy thanh tao
    Mừng xuân mới, rượu đào khuyên cạn
    Vắng tri âm mà bạn non xanh
       Gan vàng, tóc bạc, non xanh
Thiên nhiên ai hoạ bức tranh xuân sầu?

                                               (Tản Đà)

* Chú thích: Tản Đà là chủ bút của tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Bài thơ Xuân sầu (II) được sáng tác vào năm 1936, trong khoảng thời gian tờ An Nam tạp chí của ông bị đình chỉ nhiều lần, sau đó phải đóng cửa vĩnh viễn.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu giúp em nhận biết được thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của văn bản này là gì?

Câu 3. Nhận xét về không gian và thời gian trong văn bản.

Câu 4. Qua văn bản, nhân vật trữ tình gửi gắm những tâm trạng, cảm xúc gì?

Câu 5. Phân tích tác dụng của phép đối trong văn bản.

0
Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về hình tượng "nàng Vọng Phu" trong bài thơ sau: - Về thôi nàng ơi Niềm sum họp đã vào từng cánh cửa Sao nàng còn đứng trong mưa, trong gió Cô đơn giữa mây trời? - Thế để đâu những lời Ta đã hẹn với người ta thương nhớ? - Người ấy chẳng bao giờ về nữa Mấy ngàn năm ngắn ngủi lắm sao Đất nước qua trăm trận binh đao Lở bồi,...
Đọc tiếp

Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về hình tượng "nàng Vọng Phu" trong bài thơ sau:

- Về thôi nàng ơi
Niềm sum họp đã vào từng cánh cửa
Sao nàng còn đứng trong mưa, trong gió
Cô đơn giữa mây trời?

- Thế để đâu những lời
Ta đã hẹn với người ta thương nhớ?

- Người ấy chẳng bao giờ về nữa
Mấy ngàn năm ngắn ngủi lắm sao
Đất nước qua trăm trận binh đao
Lở bồi, dâu bể...

- Người đời biết thân ta hoá đá
Nhưng hay đâu ta hoá đá niềm tin
Hoá đá nỗi cô đơn
Và thời gian chờ đợi!

- Nhưng nàng chẳng thể nào đợi nổi
Ngày người ấy trở về
Chẳng ai hiểu bằng ta điều đó
Chẳng ai hiểu bằng ta nỗi khổ
Của người vợ chờ chồng...

Ta hoá đá đợi triệu lần nỗi đợi
Để những người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ mong.

(Trò chuyện với nàng Vọng Phu, Vương Trọng, Thơ tình người lính, NXB Phụ nữ, Hà Nội, tr.257 - 258)

0
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích sau:      Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,      Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan,          Nước khe cơm vắt gian nan, Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.      Buổi chiến trận mạng người như rác,      Phận đã đành đạn lạc tên rơi,          Lập lòe...
Đọc tiếp

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích sau:

     Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,

     Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan,

         Nước khe cơm vắt gian nan,

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

     Buổi chiến trận mạng người như rác,

     Phận đã đành đạn lạc tên rơi,

         Lập lòe ngọn lửa ma trơi,

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

     Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp,

     Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,

         Ngẩn ngơ khi trở về già,

Ai chồng con tá biết là cậy ai?

     Sống đã chịu một đời phiền não,

     Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,

         Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

     Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,

     Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,

     Thương thay cũng một kiếp người,

Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.

                                  (Nguyễn Du, Văn tế thập loại chúng sinh(1))

Chú thích: 

Văn tế thập loại chúng sinh còn được gọi là Văn chiêu hồn, là một sáng tác xuất sắc bằng chữ Nôm của đại thi hào Nguyễn Du, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên Đông Dương tuần báo năm 1939 thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, GS. Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802 - 1812).

0
Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích vẻ đẹp của con sông Đà trong đoạn trích sau:     Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi...
Đọc tiếp

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích vẻ đẹp của con sông Đà trong đoạn trích sau:

    Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.

(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân toàn tập, tập IV, NXB Văn học, Hà Nội, 2000)

0