K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  GẶP QUỶ DỮ VÀ THẦN RỪNG (HỔ) (Trích chèo Trương Viên) Mụ:                                - Con ơi, bây giờ mẹ đói bụng khát nước, nhọc lắm... Mẹ không thể đi được nữa, con xem có gần nhà ai thì con xin cho mẹ một chút đỡ đói lòng. Thị Phương: (Nói sử)     - Mẹ ơi,                            ...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

GẶP QUỶ DỮ VÀ THẦN RỪNG (HỔ)

(Trích chèo Trương Viên)

Mụ:                                - Con ơi, bây giờ mẹ đói bụng khát nước, nhọc lắm... Mẹ không thể đi được nữa, con xem có gần nhà ai thì con xin cho mẹ một chút đỡ đói lòng.

Thị Phương: (Nói sử)     - Mẹ ơi,

                                        Con trông bên đông có lửa

                                        Mẹ ngồi đây, con thử vào coi

                                        Có cơm cháo xin người thí bỏ

Quỷ: (Ra)                        - Động ta đây nghiêm chỉnh sắp bày

                                        Ủa kìa người họa phúc tới đây

                                        Sai chúng quỷ ra vây bắt lấy

(Xưng danh)                    Mỗ bạch yêu tinh

                                        Chiếm cao san nhất động

                                        Ngày ngày thường bắt người nuốt sống

                                        Đêm thời đón khách nhai gan

                                        Lộc thiên trù đưa đến tự nhiên

                                        Nay được bữa no say... cha chả!

                                        Này người kia,

                                        Sơn lâm rừng vắng

                                        Đỉnh thượng non cao

                                        Chốn hang sâu sao dám tìm vào

                                        Đi đâu đó, kìa con, nọ mẹ?

Thị Phương:                   - Trình lạy ông thương đoái

                                        Mẹ con tôi đói khát lắm thay

                                        Xẩy nhà lạc bước đến đây

                                        Có cơm cháo xin người thí bỏ

Quỷ:                                - Không khiến kêu van kể lể

                                        Ta quyết nhai tuổi, nuốt sống không tha

Quỷ cái: (Ra)                  - Chàng ăn thịt gì cho thiếp tôi ăn với!

Quỷ:                                 - Ta ăn thịt Thị Phương.

(Lược một đoạn: Quỷ nói chuyện với Quỷ cái. Thương cho Thị Phương, Quỷ cái nhận Thị Phương là em kết nghĩa để nàng không bị ăn thịt. Quỷ cái còn cho Thị Phương năm lạng vàng để nàng đem về nuôi mẹ.)

Thị Phương: (Quay ra) - Mẹ thức hay ngủ mẹ ơi!

Mụ:                                 - Con vào đấy có được tí gì không?

Thị Phương:                 - Thưa mẹ, con vào đó, quỷ đông đòi ăn thịt.

Mụ:                               - Ăn cơm với thịt đông à?

Thị Phương:                 - Quỷ đông đòi ăn thịt con, mẹ ạ. Quỷ cái ra can rồi lại cho vàng.

Mụ: (Cầm vàng)          - Ở hiền rồi lại gặp lành (hát sắp)

                                     Gặp vợ chú quỷ cho thanh tre già

(Nói sử)                         Ới con ơi, 

                                     Mẹ cảm thương thân mẹ

                                     Mẹ lại ngại thân con (Hát văn)

                                     Như dao cắt ruột mẹ ra

                                     Trăm sầu, nghìn thảm chất đà nên con!

(Nói)                              - Con ơi, trời còn sớm hay đã tối mà con cứ dắt mẹ đi mãi thế này?

Thị Phương:                - Trình lạy mẹ,

                                     Vầng ô đã lặn

                                     Vắng vẻ cửa nhà

                                     Mẹ con ta vào gốc cây đa

                                     Nằm nghỉ tạm qua đêm sẽ liệu (ngồi nghỉ).

Thần rừng (Hổ): (Ra)  - Ra oai hùm gầm kêu ba tiếng

                                     Phóng hào quang chuyển động phong lôi

                                     Xa chẳng tỏ, nhảy lại ngó coi

                                     Giống chi chi như thể hình người

                                     Đi đâu đó? - Kìa con, nọ mẹ

                                     Muốn sống thời ai chịu cho ai

                                     Vào nộp mệnh cho ta nhai một.

Thị Phương:                - Trăm lạy ông,

                                     Nhẽ ngày hôm qua một tận không còn

                                     Tôi kêu trời khấn đất đã vang

                                     Qua nạn ấy, nạn này lại phải

                                     Ơn ông vạn bội

                                    Ông ăn thịt một, còn một ông tha

                                     Ông để mẹ già, tôi xin thế mạng.

Mụ: (Nói sử)                 - Trình lạy ông

                                     Con tôi còn trẻ

                                     Công sinh thành, ông để tôi đền

                                     Ông ăn thịt tôi, ông tha cháu nó.

Thị Phương:               - Thưa mẹ, mẹ để con chịu cho.

Mụ:                               - Ới con ơi, con còn trẻ người non dạ, để mẹ chịu cho.

Thần rừng (Hổ):         - Nhẽ ra thời ăn thịt cả không tha

                                     Thấy mẹ con tiết nghĩa thay là

                                     Tha cho đó an toàn tính mệnh.

(Trích Trương Viên, in trong Tuyển tập chèo cổ, Hà Văn Cầu, NXB Sân khấu, 1999)

Tóm tắt đoạn trích: Trương Viên quê đất Võ Lăng, nhờ mẹ sang hỏi cưới Thị Phương, người con gái của Tể tướng đã hồi hưu. Thấy chàng học giỏi, cha Thị Phương đồng ý và cho đôi ngọc lưu ly làm của hồi môn. Giữa lúc chàng đang dùi mài kinh sử thì được chiếu đòi đi dẹp giặc, chàng từ biệt mẹ già, vợ trẻ để ra chiến trường. Trong cảnh chạy giặc, Thị Phương đã dắt mẹ chồng lưu lạc suốt mười tám năm. Hai người bị quỷ dữ trong rừng sâu đòi ăn thịt, song may nhờ người vợ quỷ nhận làm chị em xin tha rồi cho vàng. Tiếp đó họ lại bị hổ dữ đòi ăn thịt. Thị Phương tình nguyện dâng mạng mình để cứu mẹ chồng. Hổ tha mạng cho cả hai mẹ con.

Câu 1. Xác định chủ đề của văn bản trên.

Câu 2. Chỉ ra những lối nói, làn điệu xuất hiện trong văn bản. 

Câu 3. Qua hai lần suýt chết, Thị Phương hiện lên là một người phụ nữ như thế nào?

Câu 4. Nhận xét về thái độ, cách ứng xử của người mẹ chồng đối với Thị Phương.

Câu 5. Em rút ra được những bài học nào từ văn bản? Chia sẻ suy nghĩ của em về những bài học đó.

0
26 tháng 11 2024

Nhanh cần gấp

DS
26 tháng 11 2024

DS
26 tháng 11 2024

26 tháng 11 2024

Trong văn bản "Giấc mơ khối màu," hình ảnh căn bếp của mẹ hiện lên đầy chân thực và sinh động, trở thành biểu tượng cho không gian ấm cúng và tình yêu gia đình. Căn bếp không chỉ là nơi chế biến thức ăn mà còn là trái tim của ngôi nhà, nơi diễn ra những khoảnh khắc bình dị nhưng sâu sắc. Ở đó, mẹ tỉ mỉ chọn từng nguyên liệu, chế biến từng món ăn với sự chăm chút, thể hiện tình yêu thương bao la dành cho gia đình. Hơi nóng từ bếp cùng hương thơm quyến rũ của những món ăn hòa quyện tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi. Khung cảnh gian bếp thường có hình ảnh mẹ mặt mũi ướt đẫm mồ hôi, nhưng ánh mắt luôn rạng rỡ, đầy sự hy vọng cho những đứa con. Căn bếp ấy không chỉ nuôi dưỡng thể xác mà còn nuôi dưỡng tâm hồn, là nguồn cảm hứng cho những ước mơ và khát vọng cháy bỏng. Qua hình ảnh đó, tác giả khéo léo thể hiện tầm quan trọng của tình mẫu tử, khắc họa vẻ đẹp giản dị nhưng vô cùng quý giá của người mẹ trong cuộc sống.

 

 

28 tháng 11 2024

Trong văn bản "Giấc mơ khối màu", hình ảnh căn bếp của mẹ gợi lên những kỷ niệm sâu sắc và tình cảm gia đình thiêng liêng. Căn bếp không chỉ là nơi chuẩn bị những bữa ăn cho gia đình mà còn là không gian ấm áp, nơi người mẹ cặm cụi chăm sóc con cái, thể hiện sự hy sinh và yêu thương vô bờ. Bếp mẹ hiện lên với những hình ảnh giản dị nhưng đầy ý nghĩa, như chiếc nồi cơm, bếp lửa, và mùi thơm của các món ăn, tạo nên không khí ấm cúng. Căn bếp trở thành nơi gắn kết tình cảm gia đình, là nơi mỗi thành viên tìm thấy sự bình yên và cảm giác được yêu thương. Trong không gian ấy, người mẹ là linh hồn của gia đình, là nguồn cảm hứng để con cái nuôi dưỡng ước mơ và hướng tới tương lai. Hình ảnh căn bếp trong tác phẩm vì thế không chỉ mang giá trị vật chất mà còn là biểu tượng của sự gắn bó, đùm bọc và tình yêu thương vô điều kiện.

26 tháng 11 2024

Đây là bài văn nhé:>>>

Phân tích bài thơ "Khóc người vợ hiền" của Tú Mỡ

Bài thơ "Khóc người vợ hiền" của Tú Mỡ là một tác phẩm nổi bật, thể hiện sự cảm thông sâu sắc và nỗi tiếc thương của tác giả đối với người vợ hiền, qua đó phản ánh những giá trị nhân văn sâu sắc trong tình vợ chồng, sự hy sinh và tình nghĩa. Bài thơ có nét đặc trưng của thể thơ trữ tình, mang đậm cảm xúc và được viết dưới hình thức một lời thở than đầy xót xa.

1. Bố cục và hình thức:

Bài thơ chia thành hai phần chính:

  • Phần một: Mở đầu bài thơ, tác giả mô tả tình cảm và sự thương xót của mình đối với người vợ hiền. Những lời ca ngợi về phẩm hạnh của người vợ, những công lao của bà đối với gia đình, với chồng con.
  • Phần hai: Tiếp theo, tác giả bày tỏ sự tiếc nuối và đau đớn khi mất đi người vợ yêu thương, đây là phần thể hiện cảm xúc tiếc thương và sự ân hận.
2. Nội dung và ý nghĩa:

Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh người vợ hiền, là một người phụ nữ có đức hạnh, chăm lo cho gia đình, luôn hi sinh và chịu đựng trong âm thầm. Từ cách miêu tả của tác giả, người vợ hiện lên như một biểu tượng của lòng hy sinh vô bờ bến, tận tụy với gia đình, hết lòng yêu thương chồng con.

“Khóc người vợ hiền” là nỗi xót xa của người chồng khi mất đi người vợ, một người phụ nữ hiền lành, đức độ, không một lời kêu ca, oán trách. Đây cũng là hình ảnh đặc trưng của người phụ nữ trong xã hội cũ – những người luôn làm công việc nội trợ, chăm sóc gia đình mà không bao giờ đòi hỏi sự công nhận.

Tú Mỡ không chỉ thương tiếc về sự ra đi của người vợ mà còn bày tỏ nỗi ân hận vì không thể đền đáp lại những công lao của bà khi còn sống. Điều này thể hiện qua những câu thơ đầy tiếc nuối và day dứt. Nỗi đau của tác giả không chỉ là sự mất mát về mặt vật chất mà còn là sự đánh mất đi một tình yêu thương, một nguồn động viên lớn lao trong cuộc sống.

3. Cảm xúc và thái độ của tác giả:

Qua bài thơ, cảm xúc của tác giả rất mạnh mẽ và sâu sắc. Tú Mỡ thể hiện sự đau đớn, tiếc nuối qua những lời thơ thành thật, chân tình. Nhân vật "tôi" trong bài thơ không chỉ khóc thương cho người vợ đã khuất mà còn tự trách bản thân vì đã không làm tròn bổn phận với người vợ hiền, không trân trọng những gì bà đã hy sinh.

Thái độ của tác giả trong bài thơ vừa là sự tôn trọng đối với người vợ, vừa là sự tự nhận thức về những thiếu sót của chính mình. Điều này khiến bài thơ không chỉ là lời khóc than cho một người đã khuất mà còn là bài học về lòng biết ơn và sự trân trọng đối với những người thân yêu xung quanh.

4. Nghệ thuật và cách diễn đạt:

Tú Mỡ sử dụng nhiều biện pháp tu từ để làm nổi bật cảm xúc trong bài thơ. Lối viết mộc mạc, giản dị nhưng lại rất sâu lắng, dễ dàng đi vào lòng người đọc. Hình ảnh người vợ hiền được khắc họa với những từ ngữ hết sức trang trọng và kính cẩn, qua đó thể hiện sự kính trọng của tác giả đối với người vợ.

Bài thơ cũng có sự lặp lại của các câu từ như "khóc người vợ hiền" để nhấn mạnh nỗi đau đớn và sự tiếc thương vô hạn của tác giả. Những câu thơ nhẹ nhàng nhưng chất chứa tình cảm sâu sắc, khiến cho người đọc dễ dàng cảm nhận được sự mất mát và đau đớn trong lòng tác giả.

5. Kết luận:

Bài thơ "Khóc người vợ hiền" của Tú Mỡ không chỉ thể hiện sự đau thương, tiếc nuối về một người vợ đã khuất mà còn là lời nhắc nhở về giá trị của tình yêu, sự hy sinh và lòng biết ơn trong mối quan hệ vợ chồng. Bài thơ là sự thể hiện sâu sắc về những cảm xúc chân thành của một người chồng đối với người vợ hiền, qua đó cũng phản ánh những giá trị nhân văn trong xã hội xưa.

Có thể tham khảo haa🐟🐟🐟

26 tháng 11 2024

Đoạn văn nee=)))

Bài thơ "Khóc người vợ hiền" của Tú Mỡ thể hiện nỗi đau xót và sự tiếc nuối của người chồng khi mất đi người vợ hiền. Trong bài thơ, người vợ được miêu tả là một người phụ nữ tận tụy, chăm lo cho gia đình mà không đòi hỏi sự công nhận. Nỗi đau của tác giả không chỉ vì sự ra đi của bà mà còn vì sự ân hận và tự trách, khi không thể đền đáp xứng đáng cho những hy sinh của vợ. Những câu thơ của Tú Mỡ đơn giản nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc, khiến người đọc cảm nhận sâu sắc về tình cảm vợ chồng và giá trị của sự hy sinh trong tình yêu.

Có thể tham khảo thêm cách này aa🐟🐟🐟