Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trạng ngữ của câu “Giữa sân, một đài phun đang tuôn tràn sóng nước trắng ánh bạc, đổ xuống thành những cụm bọt nhỏ vào một bồn cẩm thạch được viền quanh bằng những luống hoa đổng thảo lớn.” (Harriet Beecher Stowe) là:
A. Giữa sân, một đài phun nước
B. Giữa sân
C. Một bồn cẩm thạch
D. Những luống hoa đổng thảo
Từ không thuộc nhóm: “xanh ngát, xanh biếc, xanh um, màu xanh” là từ:
A. Xanh ngát
B. Xanh biếc
C. Xanh um
D. Màu xanh
Từ không thuộc nhóm: “xanh ngát, xanh biếc, xanh um, màu xanh” là từ:
A. Xanh ngát
B. Xanh biếc
C. Xanh um
D. Màu xanh
Tuổi thơ em lớn lên với những câu hát ru êm dịu của bà ngoại. Bà là bà tiên của cuộc đời em.
Ai cũng bảo bà em đẹp lão. Tuy năm nay bà đã gần 80 tuổi nhưng bà vẫn còn rất nhanh nhẹn. Mái tóc hoa râm nhuốm đầy những nhọc nhằn, vất vả của thời gian. Khuôn mặt bà chằng chịt những nếp nhăn không theo một trật tự nào cùng với những vết sẹo lõm do thủy đậu để lại làm da bà sần sùi. Vầng trán bà cao, đôi lông mày cũng đã có một vài sợi bạc trắng. Đôi mắt bà không còn tinh anh như ngày xưa nữa nhưng nó luôn khiến cho người đối diện cảm nhận được sự dịu dàng, ấm áp. Hàm răng bà đen bóng do nhuộm và cũng vì bà ăn trầu. Cũng vì thế mà tới tận bây giờ, hàm răng của bà vẫn rất khỏe, chưa mất một cái nào. Lưng bà ngoại hơi còng nhưng bà đi lại nhanh nhẹn lắm. Đôi tay gầy guộc, trai sạn vì lam lũ nhưng sao nó đẹp đến thế, đẹp một cách lạ lùng. Đôi tay ấy cả một đời chẳng chịu nghỉ ngơi. Bà bảo “bà ngồi một chỗ không chịu được”.
Ngày trước, bà vẫn thường “thuê” em nhổ tóc bạc cho bà. Mỗi sợi em sẽ được một trăm đồng. Em ngây thơ muốn tìm được thật nhiều tóc bạc để có tiền mua kẹo ăn. Thế nhưng giờ đây, khi tóc bạc trên đầu bà ngày càng nhiều, em chỉ ước bà không bao giờ già đi, mãi mãi khỏe mạnh bên con cháu.
Mỗi trưa hè, hai bà cháu lại ngồi trên cái sạp đầu hè. Bà nhẹ nhàng vuốt mái tóc em, hat cho em nghe những bài hát ngọt ngào. Những lời ru nhẹ nhàng, êm dịu ấy đưa em vào giấc ngủ trưa giữa thời tiết oi ả. Cứ thế, em lớn lên trong tình yêu thương vô bờ bến của bà ngoại.
Bà ngoại cũng là người che chở, bảo vệ em mỗi khi em bị bố đánh đòn. Dù em mắc lỗi nặng đến đâu, bà vẫn luôn âu yếm, nhắc nhở nhẹ nhàng. Những lời dạy của bà em luôn khắc sâu trong lòng để không bao giờ mắc lỗi nữa.
Bà ngoại em luôn được mọi người yêu mến bởi tấm lòng nhân hậu, luôn giúp đỡ mọi người. Tấm lòng nhân hậu của bà đã làm tâm hồn em thêm phong phú, đã truyền thêm sức mạnh cho em để vững bước đi lên. Gia đình em ai cũng thích bà, làm theo điều mong muốn của bà. Em vẫn thường tha thẩn theo bà, lúc quét nhà, khi nhặt rau, múc nước giúp bà.
Em yêu bà, yêu từ cử chỉ, lời nói, yêu cả nụ cười, ánh mắt hiền hậu của bà. Chỉ mong thời gian ngừng trôi để bà không già đi nữa.
Tham khảo ạ:
Trong đời này, ai chẳng có một người bà. Và tôi cũng vậy, ngoài tình yêu thương mà bố mẹ dành cho, tôi còn được sống trong tình thương yêu trìu mến của bà. Vì điều kiện gia đình, tôi phải chuyển nhà, không được ở bên bà nhưng hình ảnh bà luôn khắc sâu trong trái tim tôi.
Bà tôi năm nay đã ngoài bảy mươi tuổi. Tóc bà trắng như những bà tiên trong các câu chuyện cổ tích. Lưng bà còng lắm rồi. Làn da nhăn nheo với nhiều chỗ có chấm đồi mồi. Bà đã hy sinh cả tuổi xuân, tần tảo, bươn chải, thức khuya dậy sớm nuôi nấng mẹ và các dì tôi. Đôi mắt bà không còn tinh tường như trước nhưng cái nhìn thì vẫn như ngày nào: trìu mến và nhân hậu. Đôi bàn tay thô ráp, chai sần bởi suốt đời lặn lội, vất vả kiếm cơm áo cho các con.
Ngày còn thơ bé, tôi được sống trong vòng tay yêu thương vô bờ bến của bà. Đêm nào tôi cũng chìm trong giấc ngủ êm đềm nhờ những câu chuyện cổ tích bà kể. Hay mỗi buổi sáng bà dắt tay, đưa tôi đến trường. Chờ cho cánh cổng trường khép hẳn, bà mới an tâm ra về. Chiều chiều, vẫn cái dáng đi lặng lẽ ấy, bà đưa tôi trở về nhà. Mỗi khi ở cạnh bà, tôi cảm thấy ấm áp vô cùng.
Có lần bị ngã, tôi đã nằm ăn vạ rất lâu. Bà lấy con lật đật và bảo: "Con lật đật luôn biết đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã. Cháu của bà cũng vậy, đúng không nào? Cháu được như con lật đật là bà rất vui". Nghe lời bà, tôi nín khóc và tự đứng dậy. Bà cười móm mém "Cháu ngoan lắm, lại đây bà phủi đất cho nào". Những hôm học khuya, buồn ngủ quá, tôi gục luôn xuống bàn thiếp đi. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang đắp chăn, nằm trên giường. Trên bàn học, đèn đã tắt từ lúc nào, sách vở được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp. Bà đã bế tôi lên giường, xếp lại sách vở cho tôi.
Bà luôn chăm lo việc nhà. Mẹ tôi không muốn bà làm, sợ bà mệt nhưng bà không nghe. Tôi mong mình lớn thật nhanh để đỡ đần cho bà nhưng nhiều khi, tôi lại ước ao thời gian trôi thật chậm để tôi mãi mãi nằm trong vòng tay yêu thương của bà
Bà rất vui tính, thường kể cho cả nhà nghe những chuyện hài hước. Bà cũng luôn sẵn sàng giúp đỡ hàng xóm, vì vậy, ai cũng yêu quý bà. Bà yêu thương tôi nhưng không nuông chiều. Có lần, tôi không nghe lời bà. Cả tuần, bà không nói với tôi một câu nào. Sang tuần sau, bà gọi tôi vào phòng, giảng giải cho tôi biết đâu là điều hay lẽ phải. Tôi cảm thấy ăn năn, xấu hổ vì để bà buồn. Sau chuyện đó, tôi tự hứa với mình, không bao giờ được phụ công lao tình cảm của bà.
Bà thích chăm sóc cây cảnh, Sáng sáng, bà dậy sớm tưới cây trên sân thượng. Những chồi non, nụ hoa không phụ công chăm sóc của bà, luôn tưng bừng khoe sắc thắm. Những lúc rảnh rỗi, bà ngồi ngắm không biết chán những cái cây đang dần dần lớn lên.
Tối tối, khi đi ngủ, bà thường kể chuyện cho tôi. Nghe các câu chuyện của bà, tôi như được hoá thân vào các nhân vật, khi thì là cô Tấm dịu hiền, khi lại là cô tiên tốt bụng. Bà mua cho tôi rất nhiều sách, nhờ đó kiến thức của tôi được rộng mở hơn.
Giờ đây, khi Hà Nội vào đông lạnh giá, ở nơi xa, tôi luôn lo bà có mặc đủ ấm không, bà ngủ có ngon giấc không… Tôi mong bà sống mãi bên tôi. Bà ơi, cháu yêu bà nhất trên thế gian này. Bà là người bà tuyệt vời nhất.
mk cx hơi thik thôi nhưng lần sau đừng đăng linh tinh nhé
Tham khảo:
A. Mở bài
Giới thiệu cảm xúc về cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn các nhà thơ qua Bài ca Côn Sơn (Nguyễn Trãi) và Rằm tháng giêng (Hồ Chí Minh)
B. Thân bài
Trình bày những cảm xúc, liên tưởng,tưởng tượng và suy ngẫm của mình về cảnh sắc thiên nhiên ở 2 bài thơ:Đọc bài thơ bài ca Côn Sơn của Nguyễn Trãi ta như lạc vào một nơi thiên nhiên đep đẽ, nên thơ,khoáng đạt, dịu mát,cảnh đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình;ta như được thưởng thức âm thanh trầm bổng,du dương của tiếng đàn cầm là tiếng suối chảy rì rầm....Cảnh Côn Sơn thiên nhiên kỳ thú và nên thơ làm sao!Cảnh sắc thiên nhiên là suối,đá,thông,trúc nhưng sao ta thấy gần gũi và thân thương đến thế! Nó là tiếng đàn muôn điệu,là nơi con người gần gũi giao hòa với thiên nhiên,thả hồn mình với những vần thơ (dẫn chứng)Đến với bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh ta cũng đến với đêm trăng nơi chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng cảnh cũng thật đẹp, thơ mộng;ta cũng được thưởng thức cảnh đêm trăng xuân đầy sức sống.Nó cũng làm cho tâm hồn ta thư thái.Cảnh núi rừng ở đây không có đá ,rêu,thông,trúc nhưng ta được thưởng ngoạn ánh trăng từ sông nước trời mây.Thiên nhiên ở đây không chỉ làm cho con người thư thái, thảnh thơi như trong bài Bài ca Côn Sơn mà còn làm đẹp cho những người chiến sĩ đang hoạt động vì dân,vì nước (dẫn chứng)Trình bày những cảm xúc,liên tưởng,tưởng tượng và suy ngẫm của mình về tâm hồn các nhà thơ qua 2 bài thơ:Bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình về tâm hồn của nhà thơ ,nhà thi sĩ Nguyễn Trãi:chủ động đến với thiên nhiên hòa mình với thiên nhiên,yêu nhiên nhiên tha thiết nhưng cũng đầy khí phách,bản lĩnh kiên cường,phong thái ung dung tự tại.Ta chân trọng tâm hồn trong sạch,thanh cao qua cách xưng hô,giọng điệu, hành động,và hình ảnh thiên nhiên (dẫn chứng)Bộc lộ cảm xúc,suy nghĩ của mình về tâm hồn nhà thơ,chiến sĩ Hồ Chí Minh trong bài Rằm tháng giêng:đó là tình yêu thiên nhiên,lòng yêu quê hương thiết tha.Cái đẹp trong tâm hồn Người không phải chỉ là tâm hồn thanh cao, trong sạch của một ẩn sĩ như Nguyễn Trãi mà càng say mê yêu mến cảnh Việt Bắc bao nhiêu thì người càng lo lắng viêc quân sự,sự nghiệp kháng chiến bấy nhiêu.Hai nét tâm trạng ấy thống nhất trong con người Bác (dẫn chứng)
C. Kết bài
Nhấn mạnh lại cảm xúc và suy nghĩ của mình về cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn các nhà thơ.
Bạn tham khảo nhé :
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Có lẽ Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong thời kì ông cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn để giữ cho tâm hồn được thanh cao, trong sạch.
Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là một miền đất có sức hút kì lạ. Chẳng thế mà hai lần cáo quan về ở ẩn, ông đều tìm về với Côn Sơn. Và núi rừng Côn Sơn thanh vắng đã trở thành một thế giới riêng đầy thân thương gắn bó với thi nhân. Tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi được sống với chính mình. Dường như thiên nhiên đã trở thành cứu cánh cho tâm hồn ông- một tâm hồn đớn đau vì nhân tình thế thái. Tại Côn Sơn, mọi vật đối với ông trở nên có tình, có nghĩa, như bầu bạn, như tri âm:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng - Bài 19)
Cảnh trí Côn Sơn thanh tĩnh, rộng mở, để cho tâm hồn Nguyễn Trãi hoá thân tìm về, ùa vào đó mà quên đi mọi nỗi ưu phiền:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Trích Côn Sơn ca).
Đoạn mở đầu bài Côn Sơn ca đem đến cho người đọc bao cảm nhận mới mẻ về tâm hồn thi sĩ của Ức Trai. Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc rậm, dày, có rừng trúc xanh mát..., vừa có cái hoang dã của thiên nhiên, vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người. Hơn nữa, trong con mắt thi nhân, thiên nhiên không chỉ là cảnh, mà đã trở thành nhà. Ngôi nhà thiên nhiên ấy thật đặc biệt: suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng tre trúc là nơi ngâm vịnh thơ ca. Thật là tuyệt thú! Và trong ngôi nhà thiên nhiên ấy, ông để tâm hồn mình giao hoà với cảnh và vẽ lại nó bằng một ngọn bút tài hoa.
Bức tranh thiên nhiên được chấm phá bằng âm thanh rì rầm của tiếng suối được cảm nhận như tiếng đàn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Một hình ảnh so sánh thật độc đáo và gợi cảm. Suối đang chảy hay thi nhân đã thả hồn mình vào tiếng suối, làm rung lên cung đàn diễn tả nỗi khát khao yêu cuộc sống?
Năm trăm năm sau, thi sĩ Hồ Chí Minh cũng có chung cảm nhận ấy:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Phải chăng những tâm hồn nghệ sĩ đã tìm về với nhau?
Sau những giây phút thả hồn mình cùng tiếng suối, thi nhân lặng đến ngồi bên những phiến đá mà thời gian đã rêu phong bao phủ. Ông ngồi chơi ngắm cảnh, hay ngồi đánh cờ một mình? Có lẽ là cả hai. Trên nhân gian này, không ít người đã từng ngồi trên đá, nhưng làm sao họ cảm nhận được như thi nhân?
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi ngỡ ngàng. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do của một con người trở về nhà mình (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Và trong ngôi nhà ấy, ông không những được tha hồ nghe nhạc rừng, ngồi trên đá đánh cờ, mà còn được nằm dưới bóng thông râm mát, được ngâm thơ nhàn dưới bóng trúc xanh. Một cuộc sống mà người và cảnh gắn bó với nhau, hoà nhập vào nhau. Lòng Ức Trai thanh thản đến lạ kì.
Chưa bao giờ mà tâm hồn thi sĩ của Ức Trai lại được bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và đầm thắm đến thế!
Cũng tại Côn Sơn này, hồn thơ Ức Trai còn tiếp tục rộng mở để đón nhận thiên nhiên, chở thiên nhiên về chất đầy kho:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến hà nặng vay then
(Thuật hứng - Bài 24)
Tình yêu thiên nhiên sâu nặng đến mức thi nhân sợ bóng hoa tan mà không dám quét nhà:
Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên, ngày đợi bóng hoa tan
(Quốc Âm thi tập - Bài 160)
Nhân cách thanh cao và tâm hồn thi sĩ của nguyễn Trãi thực sự là tấm gương sáng để ta soi vào.
1. Mở bài:
_Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nêu ra yêu cầu của bài: lời phủ dụ của vua Quang Trung thể hiện được sự thông minh, sáng suốt của nhà vua.
2. Thân bài:
_Khái quát vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí.
_Lời phủ dụ của vua Quang Trung:
+Khẳng định chủ quyền, độc lập của dân tộc.
+Nêu rõ âm mưu của kẻ thù và làm sống dậy ý chí đấu tranh trong tướng sĩ.
+Nêu ra các truyền thống đánh đuổi giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
+Niềm tin của vua và tướng sĩ cùng ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù xâm lấn bờ cõi và sự trừng phạt kẻ nào ăn ở hai lòng.
_Giá trị nghệ thuật: lời lẽ đanh thép, dẫn chứng sắc bén, lập luận cụ thể...
3. Kết bài:
Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật trong lời phủ dụ của vua Quang Trung.
Bài làm
Một trong những tác phẩm chương hồi nổi bật của văn học Việt Nam là Hoàng Lê nhất thống trí do Ngô gia văn phái biên soạn. Tác phẩm đã tái hiện lịch sử của một thời loạn lạc và nêu bật chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Trong đó, hồi thứ mười bốn của tác phẩm đã cho ta thấy niềm tự hào dân tộc gắn với sự kiện đại phá quân Thanh cùng số phận bi thảm của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Vua Quang Trung hiện lên trong tác phẩm là vị vua văn võ toàn tài, có công lao lớn đánh đuổi quân Thanh cũng như sau này là xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân. Vẻ đẹp của người anh hùng áo vải được tái hiện thông qua chiến công lừng lẫy đại phá quân Thanh và minh chứng cho nhiều nét phẩm chất nổi bật ở vua. Nhất là thông qua những lời phủ dụ, chân dung Quang Trung hiện lên là một vị vua yêu nước thương dân, có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa cùng những hành động rất quyết đoán.
Vua Quang Trung khẳng định chủ quyền của dân tộc ngay trong những lời đầu tiên của lời phủ dụ:
“Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị”. Lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ được vua Quang Trung đưa ra cũng mang theo âm hưởng của một Nam quốc sơn hà và của một Bình ngô đại cáo.
Cũng từ đó mà ông đã nêu ra âm mưu của kẻ thù nhằm thức tỉnh và làm cháy lên ngọn lửa chiến đấu sôi sục trong quân sĩ. “Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”, “Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa”. Có thể nói, sự cụ thể trong từng lời của vua Quang Trung đã giúp không chỉ những tướng sĩ mà chính người đọc cũng hiểu được lòng căm phẫn dành cho kẻ thù ngoại bang.
Những lời gơi nhắc của vua về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã trở thành sự đánh thức và cổ vũ tinh thần cao độ đối với mỗi người tướng sĩ. “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”. Những tấm gương lịch sử hào hùng trong chiến đấu với kẻ thù phương Bắc làm sống dậy khí thế hào hùng của dân tộc. Quá khứ vẻ vang ấy càng nhắc nhở mỗi người tướng sĩ về trách nhiệm phải không ngừng bồi dưỡng, rèn luyện để chiến đấu với kẻ thù.
Cũng từ đó mà nhà vua có cơ hội để bày tỏ lòng tin lớn lao vào binh lính, kêu gọi họ dốc lòng, dốc sức vì sự nghiệp đánh đuổi kẻ thù. “Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn”. Lời hiệu triệu toàn dân đứng lên đánh giặc giữ nước của vua Quang Trung thật sự đã trở thành những lời kêu gọi mang hiệu ứng cao để thúc tỉnh tinh thần, ý chí trong mỗi quân sĩ và giúp họ có được ý thức, tinh thần đấu tranh mạnh mẽ.
Quyết tâm sắt đá đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh cùng lời tuyên bố kỷ luật nghiêm minh của quân đội với kẻ ăn ở hai lòng chính là ý thức tự cường cao độ trong mỗi người tướng lĩnh của ta.
“Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”. Vua không chỉ là người hiểu binh, am tường việc binh mà còn luôn thấu đáo để quân lính có được tầm nhìn đúng đắn, tránh sai phạm không đáng vì cùng là nhân dân chung dòng máu.
Lời phủ dụ tướng sĩ của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ tại cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An với lập luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép, giọng điệu hào hùng đã truyền vào tinh thần, khí thế đến với mỗi bạn đọc. Nó không chỉ là lời kích lòng quân, vững ý quân mà còn là ngòi bút hào khí của dân tộc ta trước âm mưu của kẻ thù phuowgn Bắc.
Lời phủ dụ với những biện pháp nghệ thuật đặc sắc đã giúp làm sáng rõ tinh thần yêu nước trong người lãnh đạo- vua Quang Trung. Ở đó ta không chỉ bắt gặp một khí thế, tinh thần mà còn hiểu hơn lòng yêu nước nồng nàn trong dòng chảy lịch sử. Nó là sức mạnh thần kì giúp quân dân ta chiến thắng mọi kẻ thù ngoại xâm.
Chủ ngữ là bộ phận thứ nhất trong câu, nêu người hay sự vật làm chủ sự việc. Phần lớn danh từ và đại từ giữ chức vị là chủ ngữ trong câu, các loại từ khác, đặc biệt là tính từ và động từ (gọi chung là thuật từ) cũng có khi làm chủ ngữ. Trong trường hợp này, tính từ và động từ được hiểu như một danh từ. Chủ ngữ có thể dùng trả lời câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì? Việc gì? Sự vật gì?, v.v..
Chủ ngữ là bộ phận thứ nhất trong câu, nêu người hay sự vật làm chủ sự việc. Phần lớn danh từ và đại từ giữ chức vị là chủ ngữ trong câu, các loại từ khác, đặc biệt là tính từ và động từ (gọi chung là thuật từ) cũng có khi làm chủ ngữ. Trong trường hợp này, tính từ và động từ được hiểu như một danh từ. Chủ ngữ có thể dùng trả lời câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì? Việc gì? Sự vật gì?, v.v..
hok
tốt
Từ “mơ” trong câu “Rừng mơ ôm lấy núi” (Trần Lê Văn) và từ “mơ” trong cụm từ “ngủ mơ” có quan hệ với nhau như thế nào ?
A. Nhiều nghĩa
B. Đồng nghĩa
C. Đồng âm
D. Trái nghĩa
Từ “mơ” trong câu “Rừng mơ ôm lấy núi” (Trần Lê Văn) và từ “mơ” trong cụm từ “ngủ mơ” có quan hệ với nhau như thế nào ?
A. Nhiều nghĩa B. Đồng nghĩa C. Đồng âm D. Trái nghĩa
- Hok T -