K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Nhân vật lão Hạc trích trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao là một ông lão nông dân giàu lòng nhân hậu. Vợ mất sớm, lão chỉ còn lại 1 người con trai, một con chó vàng và một mảnh vườn nhỏ. Do không đủ tiền cưới vợ cho con, người con trai lão phẫn chí, bỏ đi làm đồn điền cao su. Còn lại mình lão Hạc sống thui thủi một mình với con chó, ông Lão yêu thương chăm sóc nó như một thành viên trong gia đình (âu yếm gọi nó là "cậu Vàng"; cho nó ăn trong bát như của nhà giàu; Lão Hạc cứ ăn một miếng thì lại gắp cho nó một miếng; rồi tắm rửa, bắt rận cho nó; mắng yêu nó...). Chao ôi ! Tình cảm lão đối với nó lớn làm sao. Khi hoàn cảnh quá khó khăn, lão bị ốm một trận dài làm sức khỏe giảm sút, bao nhiêu tiền bạc đổ hết vào thuốc men, lão không kiếm được việc làm, bao nhiêu việc nhẹ đàn bà con gái trong làng tranh nhau làm hết, đắn đo mãi, Lão Hã buộc lòng phải bán cậu Vàng mặc dù vô cùng đau khổ, thương xót nó vì lão đã quá nặng lòng yêu thương nó, nhất là lão đã tự dằn vặt, tự trách mình, day dứt, ấn hận tự cho là mình đã lừa một con chó (gọi nó về ăn cơm để cho thằng Mục, thằng Xiên đến bắt nó đi giết thịt) và lão khóc vô cùng đau khổ: "Những nếp nhăn xô vào nhau ép cho nước mắt chảy ra". Nói tóm lại, lão Hạc tuy chỉ là một lão nông dân nghèo khổ, hiền lành chất phác song ở lão có một tấm lòng nhân hậu đáng quý. Tình cảm của lão dành cho con chó Vàng khiến cho người đọc phải xúc động tận đáy lòng.
- Câu cảm thán: Chao ôi ! Tình cảm lão đối với nó lớn làm sao.
- câu chứa thành phần phụ chú : Còn lại mình lão Hạc sống thui thủi một mình với con chó, ông Lão yêu thương chăm sóc nó như một thành viên trong gia đình (âu yếm gọi nó là "cậu Vàng"; cho nó ăn trong bát như của nhà giàu; Lão Hạc cứ ăn một miếng thì lại gắp cho nó một miếng; rồi tắm rửa, bắt rận cho nó; mắng yêu nó.

giận ngược lại nó

Cô bé bán diêm có hoàn cảnh rất nghèo khó. Mẹ mất, bà đã qua đời, sống chui rúc ở một xó tối tăm, em luôn phải lắng nghe những tiếng chửi rủa của bố. Vào đêm giao thừa, trời rét mướt, tuyết phủ trắng xóa, em một mình đi bán diêm giữa đường phố vắng, em ngồi nép trong một góc tường, em có quẹt que diêm để sưởi ấm. Cô bé đã ngồi và quẹt các que diêm lên và trước mắt cô lần lượt hiện lên cái lò sưởi, bàn ăn với một con ngỗng quay, cây thông Nô-en rồi em nhìn thấy bà em, hai bà cháu bay vút lên cao về chầu thượng đế. Mỗi lần que diêm tắt, thực tế lại hiện ra trước mắt, lần lượt em nghĩ đến cha sẽ mắng vì không bán được diêm, phố xá vắng teo lạnh buốt tuyết rơi, gió bấc vi vu và những người khách qua đường vội vàng thờ ơ trước sự đáng thương của cô bé. Sáng hôm sau, cô bé đã chết trong đêm giao thừa.

HT

31 tháng 10 2021

Truyện xoay quanh hình ảnh cô bé bán diêm với những bất hạnh, thiếu thốn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Từ nhỏ đã mồ côi mẹ, chẳng lâu sau người bà cũng qua đời gia sản tiêu tan, sống với một ống bố nghiện rượu suốt ngày chỉ biết đánh đập cô bé. Vào đêm giáng sinh, đã nửa đêm mà em vẫn không bán được que diêm nào, sợ bị người cha đánh đập em đã không dám về nhà. Vì quá lạnh nên em đã đem những que diêm ra để sưởi ẩm, mỗi một que diêm được đốt lên là một điều ước với bao mộng tưởng trong đầu em xuất hiện. Đến khi em quẹt que diêm thứ tư thì người bà hiền từ của em hiện lên. Em đã cầu khẩn bà cho em được đi cùng bà. Cuối cùng thì hai bà cháu đã cầm tay nhau và bay lên trời.

15 tháng 10 2021

 Hiển thị là từ tượng hình

16 tháng 10 2021

TL:

Hiển thị là từ tượng hình.

~HT~

15 tháng 10 2021

Trong thời đại ngày nay, một đứa trẻ từ khi sinh ra đã mang trong mình nhiều kỳ vọng: trở thành một kỹ sư, một bác sĩ, một công an... có thể làm rạng danh gia đình. Cha mẹ nắm tay con mình bước vào trường học, nhắn nhủ con hãy học thật giỏi, mang về điểm cao. Dường như họ đã quên mất rằng học tập không chỉ là tích lũy kiến thức, mà còn là hoàn thiện nhân cách con người; như Rabindranath Tagore từng phát biểu: “Gốc của sự học là học làm người.”

Trước hết, ta cần tìm hiểu khái niệm học. Học hay còn gọi là học tập, học hành, học hỏi là quá trình tiếp thu cái mới hoặc bổ sung, trau dồi các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, giá trị, nhận thức hoặc sở thích và có thể liên quan đến việc tổng hợp các loại thông tin khác nhau. Học tập cũng như việc học tập bài bản không bắt buộc, tùy theo hoàn cảnh. Nó không xảy ra cùng một lúc, nhưng xây dựng dựa trên và được định hình bởi những gì chúng ta đã biết. Học tập có thể được xem như một quá trình, chứ không phải là một tập hợp các kiến thức thực tế và các hủ tục giáo điều. Việc học tập của con người có thể xảy ra như là một phần của giáo dục, đào tạo phát triển cá nhân.

Còn “gốc” ở đây có thể hiểu là bản chất, là nguồn gốc đồng thời cũng là mục đích cuối cùng của mọi điều. Bởi giống như gốc rễ của cây cối, đó là nơi bắt đầu sự sống của cây, là nền tảng cho sự phát triển và cũng là nơi chất dinh dưỡng mà cây hấp thụ đi xuống để nuôi dưỡng lấy cây.

Và khái niệm cuối cùng cần làm rõ đó là “học làm người”, từ khi sinh ra ta đã là một con người rồi, vậy vì sao ta phải học làm người? Làm người ở đây không phải là hiểu về mặt bên ngoài, mà là về mặt bản chất, tinh thần, trí tuệ của con người. Học làm người thứ nhất là học cách trở thành một phần của cộng đồng, hòa hợp với mọi người, đóng góp một phần công sức trong việc xây dựng nên một cộng đồng trong sạch vững mạnh; hoặc chí ít là trở thành một cá nhân không gây phiền hà cho những người xung quanh. Thứ hai, học làm người còn là học cách đối nhân xử thế, học cách tôn trọng mọi người, đó là cha mẹ, là anh em, là thầy cô, là bạn bè; ta phải học cách chung sống sao cho đúng với đạo đức, đúng với pháp luật. Và cuối cùng, học làm người là học cách tôn trọng chính bản thân mình. Bởi việc học hành, trau dồi nhân cách, bản lĩnh, cũng chính là một cách trân trọng bản thân, và chỉ khi ta biết trân trọng bản thân, người khác mới trân trọng ta.

Vậy vì sao cái gốc của học lại là học làm người, mà không phải là học cách kiếm tiền, học cách thu nhặt kiến thức? Bởi nếu bạn biết cách làm người, bạn sẽ có nền tảng để làm tất cả những điều khác một cách lương thiện. Thật ra, nếu bạn là kẻ không lương thiện, bạn sống một cách xấu xa, bạn kiếm tiền bằng những thủ đoạn, bằng cướp giật, bằng cờ bạc, bạn vẫn có thể giàu có, bạn vẫn có thể sống trên cuộc đời này. Nhưng lúc ấy bạn có sống đúng nghĩa như một con người hay không? Bạn sẽ không nhận được sự tôn trọng từ những người xung quanh, bạn là một cá nhân gây ảnh hưởng đến cộng đồng, và hơn hết, bạn thậm chí còn không tôn trọng chính bản thân mình. Nếu bạn tôn trọng bản thân, bạn đã sống đúng với lương tâm, với đạo đức, sống sao cho bản thân có thể ngẩng cao đầu đầy hãnh diện với mọi người.

Vậy phải làm thế nào để có thể học làm người? Trước tiên, cần phải làm rõ rằng học ở đây không chỉ là học trong nhà trường, mà còn là học từ bạn bè, từ gia đình, những người xung quanh, học trong đời sống. Học tập là việc cả đời, không phải chỉ trong một chốc là xong ngay được. Quá trình tôi luyện khả năng, hình thành nhân cách cũng chính là một quá trình học tập lâu dài. Trước hết, đến từ những nhân tố khách quan, cộng đồng phải cùng nhau chung tay tạo nên một môi trường học tập thuận lợi. Giúp các em hiểu được rằng học tập là một điều thú vị, chứ không phải là một điều cực nhọc chỉ có đau khổ mà thôi. Gia đình có thể giáo dục các em ngay từ nhỏ, từ những điều tưởng như đơn giản nhất, để các em có thể thấy được ý nghĩa của những việc tốt, ý nghĩa của lương tâm, của đạo đức. Nhưng trên hết, bản thân mỗi người phải có ý thức rèn luyện, chống lại những yếu tố xấu xa làm ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách. Đương nhiên chúng ta ai cũng sẽ có sai lầm, có những lúc vấp ngã, chẳng ai là người hoàn hảo. Nhưng quan trọng là chúng ta luôn cầu tiến, không ngừng hoàn thiện bản thân, đứng dậy sau mỗi sai lầm của cuộc đời. Lúc ấy, ta sẽ trở thành một con người lương thiện.

Có thể nói, đích đến cuối cùng của con người chính là trở thành một người lương thiện, đó chính là cái gốc của sự học. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng có tài mà không có đức thì là người vô dụng.”

15 tháng 10 2021

TL
Truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao kể về ông lão nghèo khổ sống cùng con chó mà ông yêu quý tên là Cậu Vàng. Ông góa vợ từ lâu, còn con trai vì túng quẫn do không đủ tiền cưới vợ nên đã bỏ đi làm đồn điền cao su ở miền Nam. Sau một trận ốm, ông lão chẳng còn sức đi làm thuê nên ông đành đưa ra một quyết định đau đớn đó là bán con vật mà ông yêu quý nhất, cũng là người bạn hằng ngày ở bên ông. Nhìn con chó bị người ta đánh bả chết, ông lão đau xót lắm. Ông mong cho nó chết đi sẽ được hóa kiếp làm người cho sung sướng, nhưng lại thấy kiếp làm người của mình cũng khổ quá. Vài ngày sau, ông đi xin ít bả chó nhà hàng xóm và bảo rằng xin để cho nhà nào đánh bả làm thịt. Ngờ đâu, bả chó ông xin là để cho ông, ông tự kết thúc đời mình ở đó để không trở thành gánh nặng cho người khác. Trước khi chết, ông đã dành dụm tiền lo tang ma cho chính mình và đem số tiền còn lại cùng mảnh vườn sang gửi nhờ ông Giáo để sau này ông Giáo sẽ gửi cho con trai lão.

HT

15 tháng 10 2021

TL

Lão Hạc không còn lại gì, tiền bạc của cải đều mất trắng vì hoa màu tan nát sau trận bão. Bản thân lão cũng đã sức cùng lực kiệt sau trận ốm. Lão quyết định bán Cậu Vàng - người bạn duy nhất của mình. Sau đó, lão cũng chọn cách tự vẫn bằng bả chó để kết thúc cuộc đời mình. Lão Hạc không muốn bản thân tiêu vào tiền mà lão đã để dành cho con trai, lão ân hận vì ngày xưa không có tiền lo đám cưới cho con nên con trai lão đã phải bỏ đi. Lão hối hận vì mình đã lừa một con chó. Biết bao nhiêu nỗi đau, bao gánh nặng đè lên đầu ông lão khiến ông phải chọn cái chết để giải thoát khỏi đau thương. Truyện ngắn cho thấy số phận bi thảm của những người nông dân trong xã hội cũ khi cái đói, cái nghèo đã bao trùm lấy họ, khiến cho họ phải chọn cái chết.

HT~~~

15 tháng 10 2021

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về hai mảng đề tài chính: người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo, sống mòn mỏi bế tắc trong xã hội xưa cũ. Trong đó, “Lão Hạc” được coi là truyện ngắn tiêu biểu nhất viết về người nông dân khi đã xây dựng được hình tượng nhân vật lão Hạc - nhân vật chính của tác phẩm.

Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ. Vợ mất sớm, một mình nuôi con khôn lớn. Tài sản trong nhà không có gì ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một con chó. Lão không có đủ tiền cho con trai cưới vợ. Chán nản, anh con trai bỏ đi đồn điền cao su, bỏ lại lão sống một mình. Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng - kỉ vật mà con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn.

Cuộc sống khốn khó là vậy, nhưng lão vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp. Nổi bật lên là một con người hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương. Lão vô cùng thương yêu con của mình. Khi không lo được cho con cưới vợ, lão đã vô cùng đau khổ. Vì thương con, lão chấp nhận sống cô đơn một mình lúc tuổi già ốm yếu để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão lại dồn hết tình cảm vào con chó Vàng - là kỉ vật duy nhất mà con để lại: “Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt”. Nhìn thấy nó, lão tưởng như được thấy chính con trai mình. Không chỉ vậy, tình yêu thương con của lão còn khiến lão chịu đựng cái đói mà kiên quyết không chịu bán đi mảnh vườn - của hồi môn của con. Thậm chí lão Hạc quyết định lựa chọn cái chết để không động đến số tiền dành cho con. Lão bán đi căn nhà, đem hết số tiền sang nhà ông giáo gửi và nhờ trông coi mảnh vườn. Khi con trai lão về sẽ giao lại cho anh. Không chỉ đối với con trai, lão Hạc còn dành tấm lòng yêu thương dành cho con Vàng. Lão đối xử với nó như với một con người. Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn. Mỗi khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận. Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà. Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp. Lão coi con Vàng giống như một người bạn hơn là một con chó. Để rồi đến khi phải bán nó, lão đã vô cùng đau đớn, day dứt. Cái quyết định bán cậu Vàng vô cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định một việc trọng đại trong đời. Khi kể lại việc bán cậu Vàng cho ông giáo nghe, lão Hạc vô cùng đau đớn, tự trách bản thân mình nỡ đi lừa một con chó.

Lão Hạc cùng là một con người sống trong sạch, giàu lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh túng quẫn, chỉ ăn củ chuối, sung luộc… nhưng lại từ chối “một cách gần như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão. Lão chỉ đến nhờ ông giáo hai việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó. Hai là, nhờ ông ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình. Sau đó, lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu. Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử. Nhà văn đã khắc họa hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết”. Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.

Nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật vô cùng thành công. Cùng với đó là ngôn ngữ kể chuyện giàu tính tạo hình và sức gợi cảm kết hợp với tài năng miêu tả nội tâm nhân vật để khắc họa thành công nhân vật lão Hạc.

Như vậy, qua nhân vật Lão Hạc, Nam Cao đã đã khắc họa chân thực cuộc đời của người nông dân Việt Nam trước cách mạng cùng với đó là phẩm chất cao quý của họ.

15 tháng 10 2021

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn "Lão Hạc" của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: "Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít", "lão hu hu khóc",...

Ban đầu là "luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai", "khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc". Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết "nhờ" ăn bả chó tự tử...! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên... Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.

Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.

Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những "Cha con nghĩa nặng" của Hồ Biểu Chánh, "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến "Lão Hạc" của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều "cậu" Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,... là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.

Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!

Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong "Một bữa no" của Nam Cao..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão "từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó "lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu". Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: "con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn". Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!

Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!

Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.

Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc.Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.

Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm: "Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn". Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân "như những con lợn không tư tưởng". Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!

Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.hakj tút