K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

14 tháng 12

Câu văn trên sử dụng một số đặc điểm ngôn ngữ trang trọng như cách chọn từ ngữ đặc sắc, cấu trúc câu phức tạp và sự kết hợp của các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng. Cụ thể:

  1. Sử dụng từ ngữ đặc biệt: Các từ như "bặc trượng nhân", "mước", "xiết", "tụ", "cây trồng", "ớt nhẩm", "mùi thơm", "năm sốc" mang đến một cảm giác cổ kính, trang trọng và hàm chứa những ý nghĩa sâu sắc, không chỉ đơn thuần là miêu tả các hiện tượng tự nhiên mà còn gợi lên một chiều sâu văn hóa, tâm lý.

  2. Cấu trúc câu phức tạp, dài dòng: Việc sử dụng những cụm từ dài và miêu tả chi tiết mang đến sự trang trọng trong cách diễn đạt, khiến người đọc phải chú ý vào từng phần của câu để hiểu đúng ý của tác giả.

  3. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ và tượng trưng: Những hình ảnh như "núi chỉ bằng đầu", "mây trời không bao giờ hiện đủ năm sốc" không chỉ miêu tả sự vật mà còn có thể tượng trưng cho một điều gì đó vượt lên trên cái bình thường, thể hiện sự sâu sắc, tĩnh lặng và đầy ẩn ý.

Tác dụng: Việc sử dụng ngôn ngữ trang trọng này giúp nâng tầm giá trị của câu văn, tạo ra một không gian trang nghiêm, đầy chiều sâu. Câu văn không chỉ thể hiện sự tôn kính đối với đối tượng được miêu tả mà còn gợi lên một cảm xúc mạnh mẽ về sự vô thường, sự khao khát vượt qua giới hạn của con người, hay nhấn mạnh sự bền vững, kiên trì trong tự nhiên. Mặt khác, việc sử dụng ngôn ngữ trang trọng cũng tạo ra một không gian nghệ thuật lôi cuốn, khiến người đọc không chỉ đọc mà còn phải suy ngẫm, cảm nhận sâu sắc hơn về các giá trị văn hóa, tự nhiên mà tác giả muốn truyền tải.

14 tháng 12

## Vượt Qua Ánh Mắt Định Kiến: Từ Bỏ Miệt Thị Ngoại Hình

“Tâm bất sinh nhiên, tướng tự nhiên diệt” - câu nói của Phật Thích Ca Mâu Ni hàm chứa một chân lý sâu sắc về sự ảnh hưởng của tâm niệm đến hiện thực. Ánh mắt định kiến, sự miệt thị ngoại hình chính là sản phẩm của một tâm thức chưa được khai mở, đang tự giam mình trong những khuôn khổ hẹp hòi, từ đó gây ra những tổn thương không thể đo đếm cho người khác.  Bài viết này sẽ nỗ lực thuyết phục độc giả từ bỏ quan niệm sai lầm về miệt thị ngoại hình, hướng đến một xã hội tôn trọng sự đa dạng và vẻ đẹp đích thực.

Thực tế cho thấy, miệt thị ngoại hình tồn tại dưới nhiều hình thức, từ những lời bình phẩm thiếu thiện cảm, những ánh nhìn soi mói, chế giễu, đến những hành vi phân biệt đối xử công khai hoặc ngấm ngầm.  Người gầy bị cho là yếu ớt, thiếu sức sống; người béo bị gắn mác lười biếng, thiếu tự chủ; người có làn da khác màu bị kì thị; người có khuyết tật bị nhìn nhận với sự thương hại hay xa lánh.  Tất cả những điều này đều xuất phát từ một quan niệm sai lầm: rằng vẻ bề ngoài quyết định giá trị con người.  Đây là một quan điểm nông cạn và nguy hại, nó không chỉ làm tổn thương người bị miệt thị mà còn phản ánh một sự thiếu hiểu biết sâu sắc về bản chất của con người.

Thứ nhất, vẻ đẹp ngoại hình là một khái niệm tương đối và chủ quan.  Tiêu chuẩn cái đẹp thay đổi theo thời gian, văn hoá và khu vực địa lý.  Điều mà người này cho là đẹp có thể bị người khác cho là xấu, và ngược lại.  Áp đặt một chuẩn mực duy nhất về vẻ đẹp, rồi dùng nó để đánh giá, phân loại con người là một hành động cực kỳ thiếu công bằng và phi lý.  Vẻ đẹp thực sự nằm ở sự đa dạng, ở sự độc đáo và cá tính của mỗi cá nhân.  Một người có ngoại hình không "chuẩn mực" hoàn toàn có thể sở hữu một tâm hồn đẹp, một trí tuệ sáng suốt, và một nhân cách cao quý.  Đánh giá con người chỉ dựa trên vẻ bề ngoài đồng nghĩa với việc ta bỏ qua những giá trị tinh thần, những phẩm chất quý báu mà họ đang sở hữu.

Thứ hai, miệt thị ngoại hình gây ra những hậu quả tâm lý nghiêm trọng cho nạn nhân.  Bị chỉ trích, chế giễu về ngoại hình khiến người ta cảm thấy tự ti, mặc cảm, mất đi sự tự tin trong giao tiếp và cuộc sống.  Nhiều người rơi vào trầm cảm, lo âu, thậm chí có hành vi tự làm tổn thương bản thân.  Đặc biệt, với trẻ em và thanh thiếu niên, những đối tượng có tâm lý còn non nớt, việc bị miệt thị ngoại hình có thể để lại những vết sẹo tâm lý sâu đậm, ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của chúng.  Sự tự ti về ngoại hình có thể dẫn đến việc hạn chế các cơ hội trong học tập, công việc và các mối quan hệ xã hội, tạo nên một vòng luẩn quẩn của sự cô lập và bất hạnh.

Thứ ba,  miệt thị ngoại hình không chỉ gây hại cho cá nhân mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến toàn xã hội.  Một xã hội dung thứ cho sự miệt thị ngoại hình là một xã hội thiếu văn minh, thiếu lòng nhân ái.  Nó tạo ra một bầu không khí tiêu cực, làm giảm đi sự đoàn kết và hợp tác giữa các thành viên trong xã hội.  Thay vì tập trung vào sự phát triển chung, mọi người sẽ phải dành thời gian và năng lượng để đối phó với những định kiến, sự kỳ thị, dẫn đến sự lãng phí nguồn lực và giảm hiệu quả hoạt động xã hội.

Vậy, làm thế nào để từ bỏ quan niệm sai lầm về miệt thị ngoại hình?  Trước hết, mỗi người cần nhận thức được sự nguy hại của hành vi này.  Hãy đặt mình vào vị trí của người bị miệt thị để hiểu được cảm giác bị tổn thương, bị xúc phạm của họ.  Hãy học cách tôn trọng sự khác biệt, chấp nhận và yêu thương mọi người với tất cả những điểm mạnh, điểm yếu của họ.  Thay vì tập trung vào những khiếm khuyết về ngoại hình, hãy nhìn nhận con người thông qua những phẩm chất bên trong, thông qua hành động và đóng góp của họ cho xã hội.

Bên cạnh đó, chúng ta cần có những hành động cụ thể để chống lại miệt thị ngoại hình.  Hãy lên tiếng phản đối khi chứng kiến những hành vi kỳ thị.  Hãy giáo dục trẻ em về lòng khoan dung, sự tôn trọng lẫn nhau, giúp chúng hình thành một thái độ tích cực đối với sự đa dạng của con người.  Các phương tiện truyền thông cần đóng vai trò tích cực trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề này, góp phần xây dựng một xã hội bình đẳng, công bằng và nhân văn.

Tóm lại,  "Mỗi người là một bông hoa, mỗi bông hoa đều có vẻ đẹp riêng" -  đó không chỉ là một câu nói hay mà còn là một chân lý cần được tôn trọng.  Miệt thị ngoại hình là một hành vi sai trái, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho cá nhân và xã hội.  Hãy cùng nhau nỗ lực để vượt qua những ánh mắt định kiến, hướng đến một xã hội trân trọng sự đa dạng, nơi mà mỗi người đều được tôn trọng và yêu thương, bất kể ngoại hình như thế nào.  Chỉ khi đó, chúng ta mới thực sự xây dựng được một xã hội văn minh, hạnh phúc và phát triển bền vững.

Bạn biết chăng, thế gian này có điều kì diệu, đó là không ai có thể là bản sao 100% của ai cả. Bởi thế, bạn là độc nhất, tôi cũng là độc nhất. Chúng ta là những con người độc nhất vô nhị, dù ta đẹp hay xấu, tài năng hay vô dụng, cao hay thấp, mập hay ốm, có năng khiếu ca nhạc hay chỉ biết gào như vịt đực. Vấn đề không phải là vịt hay thiên nga. Vịt có giá trị của vịt, cũng...
Đọc tiếp

Bạn biết chăng, thế gian này có điều kì diệu, đó là không ai có thể là bản sao 100% của ai cả. Bởi thế, bạn là độc nhất, tôi cũng là độc nhất. Chúng ta là những con người độc nhất vô nhị, dù ta đẹp hay xấu, tài năng hay vô dụng, cao hay thấp, mập hay ốm, có năng khiếu ca nhạc hay chỉ biết gào như vịt đực.

Vấn đề không phải là vịt hay thiên nga. Vịt có giá trị của vịt, cũng như thiên nga có giá trị của thiên nga. Vấn đề không phải là hơn hay kém, mà là sự riêng biệt. Và bạn phải biết trân trọng chính bản thân mình. Người khác có thể đóng góp cho xã hội bằng tài kinh doanh  hay năng khiếu nghệ thuật, thì bạn cũng có thể đóng góp cho xã hội bằng lòng nhiệt thành và sự lương thiện.

Bạn có thể không thông minh bẩm sinh nhưng bạn luôn chuyên cần và vượt qua bản thân từng ngày một. Bạn có thể không hát hay nhưng bạn không bao giờ là người trễ hẹn. Bạn không là người giỏi thể thao nhưng bạn có nụ cười ấm áp. Bạn không có gương mặt xinh đẹp nhưng bạn rất giỏi thắt cà vạt cho ba và nấu ăn rất ngon. Chắc chắn, mỗi một người trong chúng ta đều được sinh ra với những giá trị có sẵn. Và chính bạn hơn ai hết phải biết mình, phải nhận ra những giá trị đó”.

(Bản thân chúng ta là những giá trị có sẵn - Phạm Lữ Ân)

Thực hiện các yêu cầu: Chọn phương án trả lời đúng cho các câu hỏi từ câu 1 đến câu 8 và viết chữ cái đứng trước phương án đó vào bài làm.

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?

Câu 2. Luận đề trong văn bản trên là gì ?

Câu 3. Đoạn văn thứ 3 được triển khai theo cách nào?

Câu 4. Nghĩa của thành ngữ “độc nhất vô nhị” là:

Câu 5. Theo tác giả, người khác có thể đóng góp cho xã hội bằng tài kinh doanh hay năng khiếu nghệ thuật, thì bạn cũng có thể đóng góp cho xã hội bằng điều gì?

 Câu 6. Điều kì diệu mà tác giả nói tới trong văn bản trên là gì?

Câu 7. Em hiểu như thế nào về ý nghĩa của câu: “Bạn biết chăng, thế gian này có điều kì diệu, đó là không ai có thể là bản sao 100% của ai cả. Bởi thế, bạn là độc nhất, tôi cũng là độc nhất”?

Câu 8. Câu văn Bạn có thể không hát hay nhưng bạn không bao giờ là người trễ hẹn.có vai trò gì trong đoạn văn

Câu 9. (1,0 điểm) Em có đồng ý với suy nghĩ của tác giả Chắc chắn, mỗi một người trong chúng ta đều được sinh ra với những giá trị có sẵn. Và chính bạn hơn ai hết phải biết mình, phải nhận ra những giá trị đó không? Vì sao?

Câu 10. (1,0 điểm) Từ nội dung văn bản, em rút ra những bài học gì cho bản thân?

0
15 tháng 12

Bước sang thế kỷ XX, nền văn học dân tộc đã có những chuyển biến nhất định. Văn học chuyển dịch theo hướng hiện đại hóa. Đó là sự xuất hiện của các trào lưu văn học, các quan niệm thẩm mỹ, các hình tượng nghệ thuật, cũng như các chủ đề, đề tài mới. Và đặc biệt phải kể tới sự thay đổi của hệ thống thể loại văn học trong giai đoạn giao thời này. Sự phát triển của một nền văn học có thể được nhìn nhận qua quá trình phát triển của các thể loại nên quá trình hiện đại hóa nền văn học cũng được xem xét thông qua sự thay đổi cơ cấu thể loại và những cách tân tìm tòi mới trong từng thể loại đó. Trong quá trình hiện đại hóa, nền văn học Việt Nam đã xảy ra hiện tượng phá vỡ cơ cấu thể loại cũ. Những thể loại vùng ngoại biên dần đi vào trung tâm, đồng thời xuất hiện những thể loại mới du nhập từ nền văn học phương Tây. Sự cách tân nền văn học được thể hiện rõ nhất qua sự phát triển và chiếm ưu thế của những thể loại văn xuôi cùng với những đổi mới mạnh mẽ trong chính các thể loại đó. Thể loại du ký hay còn gọi là thể tài du ký đã xuất hiện trong lịch sử văn học Việt Nam từ rất sớm. Ngay trong nền văn học trung đại, người ta đã thấy xuất hiện các bài thơ, bài phú, với nội dung ghi chép lại những sự kiện, cũng như những danh lam thắng cảnh trong các cuộc du hành của những người lữ khách. Đặc biệt cuối thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện của một loạt các tác phẩm như: Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Dậu của Trương Vĩnh Ký thể tài du ký mới dần phát triển. Nhưng phải tới mấy thập niên đầu của thế kỷ XX, thể tài du ký mới thực sự thành một dòng chảy liên tục, mà công đầu là của ông chủ bút báo Nam Phong. Đầu thế kỷ XX, giao thông phát triển, việc giao lưu văn hóa được mở rộng đã tạo điều kiện cho việc đi lại cho các nhà du ký. Từ đây, hàng loạt các tác phẩm du ký đã được ra đời. Trong mỗi tác phẩm du ký, đằng sau những bức tranh danh lam thắng cảnh, luôn chứa đựng những nỗi niềm ưu ái, những xúc cảm chân thành nhất của người viết về quê hương đất nước, về cuộc sống. Bởi mong muốn đem những cái hay, cái đẹp trong từng dặm đường của đất nước sẻ chia với người đọc; cũng như muốn lưu giữ lại những phong tục tập quán, những truyền thống văn hóa cho các thế hệ sau, Phạm Quỳnh đã tạo một mục du ký trên Nam Phong tạp chí. Mục du ký đã liên tục được đăng tải với sự đóng góp của nhiều cây bút nổi tiếng như: Nguyễn Bá Trác, Đông Hồ, Mộng Tuyết, Tùng Vân, Trần Trọng Kim Trải qua 17 năm (1917 - 1934), đã có 62 tác phẩm du ký được in trên Nam Phong tạp chí với những nội dung phong phú, cũng như những đóng góp nghệ thuật mới mẻ. Với hi vọng đem lại cái nhìn khái quát về thể tài du ký trên Nam Phong tạp chí, cũng như những đóng góp của thể tài này trong quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc, trong khóa luận nghiên cứu này chúng tôi xin chọn đề tài: Khảo sát thể du ký trên Nam Phong tạp chí (1917 – 1934).

15 tháng 12

=8

15 tháng 12

Những đặc điểm của truyện ngắn là:

- Truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ nhỏ, có khuôn khổ ngắn

- Truyện ngắn phản ánh hiện thực trong tính khách quan của nó

- Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp.

- Truyện ngắn miêu tả nhân vật ở những khía cạnh nổi bật nhất.

- Nhân vật được miêu tả chi tiết và sinh động trong mối quan hệ với hoàn cảnh, với môi trường xung quanh.

- Truyện ngắn thường có kết cấu bất ngờ đột biến, hoặc tương phản, hoặc liên tưởng.

Bạn ơi cho mình hỏi bạn học trường gì mà học sang kì hai nhanh thế

Bây giờ bọn mình mới xong quyển SGK tập 1

15 tháng 12

 

hay