K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

21 tháng 5

Dưới đây là gợi ý bài làm ngắn gọn, bạn có thể tham khảo và phát triển thêm nhé!


Bài làm: Em có đồng tình với suy nghĩ của tác giả không?

Em hoàn toàn đồng tình với suy nghĩ của tác giả: “Tại sao mình không thể học loài kiến nhỏ kia, biến trở ngại, khó khăn hôm nay thành hành trang quý giá cho ngày mai tươi sáng hơn”.

Bởi vì trong cuộc sống, mỗi khó khăn, thử thách chính là cơ hội để chúng ta trưởng thành và học hỏi. Giống như loài kiến nhỏ, dù thân hình bé nhỏ nhưng luôn biết cách vượt qua những chướng ngại vật trên đường đi để tìm kiếm thức ăn và xây tổ ấm. Nếu chúng ta biết kiên trì, nhẫn nại và không ngừng cố gắng, thì những khó khăn hiện tại sẽ trở thành bài học quý giá giúp ta vững vàng hơn trong tương lai.

Để chứng minh suy nghĩ này, em nghĩ cần làm hai việc sau đây:

  1. Rèn luyện ý chí kiên trì và tinh thần vượt khó: Khi gặp khó khăn, thay vì nản lòng, ta cần kiên nhẫn, tìm cách giải quyết và không bỏ cuộc. Như loài kiến, dù gặp vật cản lớn vẫn không ngừng cố gắng vượt qua.
  2. Biết học hỏi từ thất bại và sai lầm: Mỗi lần thất bại là một bài học giúp ta rút kinh nghiệm, hoàn thiện bản thân hơn. Nếu biết tận dụng những trải nghiệm đó, ta sẽ ngày càng trưởng thành và thành công hơn.

Như vậy, việc học tập từ loài kiến nhỏ để biến khó khăn thành hành trang là điều hoàn toàn đúng đắn và cần thiết trong cuộc sống của mỗi người.


Nếu bạn muốn mình giúp bạn viết bài dài hơn hoặc theo phong cách khác, cứ nói nhé!

Vấn đề ô nhiễm môi trường và trách nhiệm của mỗi cá nhân

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế nhanh chóng, vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng, đe dọa trực tiếp đến sức khỏe con người và sự bền vững của hành tinh. Đây không chỉ là trách nhiệm của các chính phủ, tổ chức mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong xã hội.

Ô nhiễm môi trường biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: ô nhiễm không khí từ khí thải công nghiệp và phương tiện giao thông, ô nhiễm nguồn nước do xả thải bừa bãi, ô nhiễm đất do sử dụng quá mức hóa chất trong nông nghiệp và rác thải sinh hoạt. Hậu quả của ô nhiễm môi trường là vô cùng nặng nề. Sức khỏe con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng với các bệnh về đường hô hấp, tim mạch, ung thư gia tăng. Hệ sinh thái bị tàn phá, đa dạng sinh học suy giảm, gây mất cân bằng sinh thái. Biến đổi khí hậu với các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, lũ lụt, bão tố ngày càng diễn ra thường xuyên và khốc liệt hơn.

Vậy tại sao mỗi cá nhân chúng ta lại có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn đề này? Thứ nhất, hành động nhỏ của mỗi người, nếu được nhân rộng, sẽ tạo ra sức mạnh lớn. Việc tiết kiệm điện, nước, sử dụng phương tiện giao thông công cộng, hạn chế sử dụng túi nilon, phân loại rác thải tại nguồn, trồng cây xanh... đều là những đóng góp thiết thực. Thứ hai, ý thức bảo vệ môi trường cần được hình thành và lan tỏa từ mỗi gia đình, trường học, cộng đồng. Việc giáo dục, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của môi trường, về những hành vi gây hại và cách bảo vệ môi trường là vô cùng cần thiết. Thứ ba, mỗi người cần chủ động lên tiếng, phản ánh những hành vi gây ô nhiễm môi trường, ủng hộ các hoạt động bảo vệ môi trường, tạo áp lực để các doanh nghiệp, tổ chức và chính quyền có trách nhiệm hơn với môi trường.

Tuy nhiên, trên thực tế, ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận không nhỏ người dân còn rất hạn chế. Vẫn còn tình trạng xả rác bừa bãi, sử dụng lãng phí tài nguyên, thờ ơ với các vấn đề môi trường xung quanh. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sự thiếu hiểu biết, thói quen xấu, sự thiếu quan tâm của gia đình và nhà trường, cũng như sự thiếu chế tài xử phạt nghiêm minh.

Để thay đổi thực trạng này, cần có sự chung tay của cả cộng đồng. Gia đình và nhà trường cần tăng cường giáo dục về môi trường cho trẻ em, hình thành ý thức bảo vệ môi trường từ khi còn nhỏ. Các phương tiện truyền thông cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về các vấn đề môi trường và cách bảo vệ môi trường. Chính quyền cần có các chính sách, quy định chặt chẽ để quản lý và bảo vệ môi trường, đồng thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

Tóm lại, ô nhiễm môi trường là một vấn đề cấp bách, đòi hỏi sự chung tay của toàn xã hội. Mỗi cá nhân cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình, thay đổi hành vi, lối sống để góp phần bảo vệ môi trường, xây dựng một tương lai xanh, sạch, đẹp cho chính chúng ta và các thế hệ mai sau.

3 tháng 5

dễ, vấn đề yêu đương ý

3 tháng 5

Giải thích câu tục ngữ "Đường dài mới biết ngựa hay":

1. Nghĩa đen

  • Trên một chặng đường dài, con ngựa khỏe sẽ bền bỉ, vượt qua thử thách để về đích, trong khi ngựa yếu sẽ dần đuối sức.
  • Qua quãng đường ấy, người ta mới phát hiện được bản chất thật sự của con ngựa (tốt/xấu, khỏe/yếu).

2. Nghĩa bóng

Câu tục ngữ này ẩn dụ về con người và cuộc sống, với hàm ý:

  • Phẩm chất, năng lực thật sự của một người chỉ bộc lộ qua thời gian dài và thử thách.
    • Ví dụ: Một người tự nhận giỏi nhưng chỉ khi cùng làm việc lâu dài, ta mới thấy họ có thực tâm, kiên trì hay không.
  • Không nên vội đánh giá người khác qua vẻ bề ngoài hay thành tích nhất thời.
    • Ví dụ: Bạn học giỏi nhưng thiếu đạo đức, qua thời gian sẽ bị mọi người nhận ra.
  • Cần kiên nhẫn để nhìn nhận sự việc một cách toàn diện.

3. Bài học ứng dụng

  • Với bản thân:
    • Đừng nản lòng nếu bị đánh giá thấp, hãy chứng minh năng lực bằng hành động bền bỉ.
    • Rèn luyện tính kiên trì, vì thành công thực sự cần thời gian.
  • Với người khác:
    • Tránh phán xét vội vàng, hãy quan sát và cho họ cơ hội thể hiện.
    • Chọn bạn bè, đối tác bằng cách xem xét hành động lâu dài, không chỉ lời nói.

4. Liên hệ thực tế

  • Trong tình bạn: Có những người ban đầu rất thân nhưng khi khó khăn mới bỏ rơi ta → "Đường dài" giúp nhận ra ai là bạn thật.
  • Trong công việc: Nhân viên làm việc cẩn thận, chăm chỉ lâu dài thường được trọng dụng hơn người chỉ giỏi "phô trương".

Kết luận: Câu tục ngữ nhắc nhở chúng ta sống chậm lại, suy xét kỹ lưỡng và tin rằng thời gian sẽ là thước đo chân lý chính xác nhất. Đây cũng là lời khuyên về sự khiêm tốn, bền bỉ trong hành trình phát triển bản thân.



3 tháng 5

Tôi yêu chuyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm

Bởi lẽ, từ khi chúng ta còn thơ bé đã thấm nhuần những câu chuyện cổ của bà của mẹ. Trong số đó, cô Tấm diu hiền trong truyện cổ tích “Tấm Cám” luôn là hình mẫu lí tưởng để chúng ta ao ước.

Trong truyện, cô Tấm là từ một cô gái mồ côi mà trở thành hoàng hậu. Từ nhỏ đã mất mẹ, cha lại lấy vợ rồi mất sớm, Tấm sống chung với mẹ ghẻ và con của mụ là Cám. Cuộc sống của Tấm bên cạnh mẹ con Cám là một chuỗi ngày cực nhọc, vất vả. Sáng thái khoai, chiều lạ chăn trâu, hầu như ở nhà có việc gì nặng nhọc Tấm đều phải làm hết. Còn Cám chỉ đủng đỉnh ăn chơi tối ngày. Vậy mà cô Tấm chăm chỉ chưa bao giờ than vãn. Nhưng ngay khi chăm chỉ làm việc, cô Tấm cũng bị cướp mất thành quả lao động của mình là chiếc yếm đỏ. Nghe lời mụ dì ghẻ, ai bắt được nhiều tôm tép hơn thì sẽ được thưởng chiếc yếm đỏ. Đó quả là niềm ao ước với cô gái vẫn ngày ngày đầu tắt mặt tối làm việc. Tấm chăm chỉ mò cua bắt tép, do đã quen mà chỉ một lúc đã đày giỏ.

Còn Cám chỉ mải chơi, dạo hết ruộng nọ đến ruộng kia. Tấm vì thật thà, cả tin mà bị Cám lừa gạt lấy mất giỏ tép, cướp luôn yếm đỏ. Tủi thân, Tấm bưng mặt khóc. Sự buồn tủi của cô gái nhỏ đã được bụt giúp đỡ. Khi bụt lên đã trao cho Tấm một người bạn tinh thần vô cùng quý giá. Đó chính là con cá bống. Với một cô gái luôn buồn khổ và cô đơn, bị đối xử tệ bạc như Tấm, cá bống quả là một người bạn vô giá. Hằng ngày, để nuôi sống người bạn đó, Tấm chia phần thức ăn ít ỏi của mình cho Bống, tâm sự với Bống. Tưởng chừng cuộc sống của Tấm dù thiệt thòi nhưng sẽ được yên ổn. Vậy mà, mụ dì ghẻ và Cám lại ghen ghét, ăn thịt mất cá bống. Tấm tủi thân cũng chỉ biết khóc. Bụt liền bày cách chôn xương bống cho Tấm. Tấm răm rắp nghe thôi mà không hay biết rằng những hành động vô tư, chân thành của mình sẽ đem lại những điều bất ngờ sau này.

Cuộc sống của Tấm sẽ chẳng thay đổi nếu như không có yến hội do nhà vua tổ chức. Như bao cô gái khác, Tấm cũng ao ước được đi xem hội. Vậy mà mẹ con Cám nỡ nhẫn tâm cướp mất niềm vui tinh thần đó, hành hạ Tấm bằng cách trộn thóc với gạo và bắt Tấm nhặt, nhặt xong mới được đi chơi. Điều này quả thật là quá sức với cô gái. Tấm lại bưng mặt khóc nức nở. Lúc này Bụt hiện lên và giúp Tấm. Sự chân thành, chăm chỉ thật thà của Tấm đã khiến cô được sự giúp đỡ, được đi chơi hội. Đến chỗ lội, Tấm vì vội vàng mà đánh rơi chiếc giày. Và như một phần thưởng cho cô gái hiền lành, nết na, nhà vua nhặt được chiếc giày và quyết tâm lấy chủ nhân của chiếc giày làm vợ. Cô Tấm từ một cô gái nghèo khổ đã trở thành hoàng hậu trong sự hằn học của mẹ con Cám.

Nếu dừng lại ở đây thì Tấm Cám sẽ rất giống với mô típ lọ lem của các nước trên thế giới. Nhưng phần sau của “Tấm Cám” mới là sự sáng tạo tài tình của nhân dân ta. Hạnh phúc không phải dễ dàng có được, không phải chỉ do Bụt, do may mắn mà có mà con người phải tự đấu tranh để giành lấy. Tấm trở thành vợ vua nhưng vẫn hiếu thảo như xưa. Nàng về quê giỗ cha những không ngờ mẹ con Cám đã giăng bẫy sẵn nhằm giết hại Tấm. Chặt cau khiến Tấm ngã xuống ao chết, cái ác là mẹ con Cám đã đi đến tận cùng. Nếu khi xưa, chúng cướp đi vật chất, tinh thần của cô Tấm thì bây giờ nhẫn tâm cướp đi cả tính mạng của người khác.

Cũng từ đây, Cô Tấm hóa kiếp nhiều lần để đòi lại hạnh phúc của mình. Hóa thành chim vàng xanh quấn quýt bên vua, hóa thành cây xoan đào che bóng mát cho người chồng yêu quý, rồi hóa thành khung cửi để chửi rủa Cám. Mỗi lần, cô Tấm càng mạnh mẽ nhẫn nại bao nhiêu thì mẹ con Cám lại càng nhẫn tâm, tàn ác quyết giết hại Tấm bấy nhiêu. Cuối cùng, cô Tấm náu mình trong quả thị ở cùng với bà hàng nước. Rồi như một sự sắp đặt của ý trời và duyên phận. Nhà vua tìm thấy Tấm khi ghé qua quán nước của bà cụ tốt bụng. Tấm trở cung tìm lại hạnh phúc của mình.

Đáng nói nhất chính là phần kết truyện có nhiều dị bản. Trong đó Tấm dội nước sôi Cám hay làm mắm Cám gửi về cho mụ dì ghẻ. Cũng có bản, cô Tấm tha chết cho mẹ con Cám nhưng sau đó bọn chúng cũng bị ông trời trừng phạt. Xoay quanh mỗi cái kết có nhiều ý kiến trái chiều. Tuy nhiên, dù ở cái kết nào, thì dụng ý của nhân dân ta xưa vẫn mong cô Tấm có thể bảo vệ hạnh phúc của mình và cái ác phải bị trừng trị. “Tấm Cám” là truyện cổ tích thần kì với nhân vật Tấm tiêu biểu cho sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân lao động.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
3 tháng 5

Bài văn phân tích nhân vật Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du:

Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc, đã khắc họa thành công biết bao hình tượng nhân vật sống động trong kiệt tác "Truyện Kiều". Trong số đó, Thúy Kiều nổi lên như một biểu tượng cho vẻ đẹp tài hoa, phẩm hạnh cao quý nhưng cũng đầy bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Phân tích nhân vật Thúy Kiều không chỉ giúp ta hiểu sâu sắc hơn về số phận cá nhân nàng mà còn cảm nhận được tiếng nói nhân đạo đầy xót thương của tác giả.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả bằng những bút pháp ước lệ tài tình: "Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn". Nàng không chỉ sở hữu nhan sắc "nghiêng nước nghiêng thành" mà còn có tài cầm, kỳ, thi, họa "pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm". Sự hoàn hảo đến tuyệt đối ấy dường như đã báo trước một số phận đầy sóng gió, bởi "hồng nhan bạc phận" là quy luật nghiệt ngã của xã hội đương thời.

Không chỉ đẹp và tài năng, Thúy Kiều còn là một người con hiếu thảo, một người chị trách nhiệm và một người tình chung thủy. Khi gia đình gặp biến cố, nàng đã không ngần ngại bán mình chuộc cha, một hành động cao đẹp thể hiện tấm lòng hiếu thảo và đức hy sinh cao cả. Tình yêu của Kiều và Kim Trọng là một mối tình trong sáng, thề non hẹn biển, nhưng cũng đầy trắc trở bởi lễ giáo phong kiến. Dù trải qua bao nhiêu đau khổ và tủi nhục, Kiều vẫn luôn giữ trong tim hình bóng của mối tình đầu, cho thấy nàng là người trọng tình nghĩa.

Tuy nhiên, cuộc đời của Thúy Kiều lại là chuỗi những bi kịch đau đớn. Từ việc bị Mã Giám Sinh lừa gạt, rơi vào lầu xanh ô nhục, đến những năm tháng sống trong cảnh "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần", Kiều phải chịu đựng sự chà đạp về nhân phẩm và thể xác. Mỗi bước ngoặt trong cuộc đời nàng đều là một nấc thang dẫn đến vực sâu của khổ đau. Dù vậy, trong tận cùng của tuyệt vọng, Kiều vẫn giữ được phẩm chất cao đẹp, một tâm hồn trong sáng và khát khao được sống lương thiện.

Ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du đã khắc họa sâu sắc nỗi đau khổ và sự giằng xé trong tâm hồn Thúy Kiều. Chúng ta cảm nhận được sự tủi nhục, ê chề khi nàng phải sống trong cảnh nhơ nhuốc, sự cô đơn, tuyệt vọng khi không tìm thấy lối thoát. Đồng thời, ta cũng thấy được sức sống tiềm ẩn, khát vọng hướng thiện và niềm tin vào công lý trong trái tim người con gái tài hoa bạc mệnh.

Nhân vật Thúy Kiều không chỉ là một cá nhân chịu đựng bất hạnh mà còn là hình ảnh tiêu biểu cho số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. Qua cuộc đời nàng, Nguyễn Du đã lên án mạnh mẽ những thế lực đen tối chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người, đồng thời thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người đau khổ.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
3 tháng 5

- Đam mê của mình là ca hát.

- Để thực hiện ước mơ đó mình đã: Tham gia các hoạt động ca hát; rèn luyện kỹ năng đó; biểu diễn và chia sẻ tới mọi người xung quanh; tìm hiểu thêm về âm nhạc

- Và mình sẽ: Tiếp tục học hỏi và phát triển; tìm kiếm cơ hội biểu diễn; kết nối với cộng đòng âm nhạc.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
3 tháng 5

Người Mẹ - Tình Yêu Vĩ Đại và Sự Hy Sinh Thầm Lặng

Trong cuộc đời mỗi người, hình ảnh người mẹ luôn là biểu tượng thiêng liêng, là điểm tựa vững chắc và là nguồn suối yêu thương vô bờ bến. Với riêng tôi, mẹ không chỉ là người sinh thành, dưỡng dục mà còn là một người bạn đồng hành, một nguồn cảm hứng bất tận về sự hy sinh thầm lặng và tình yêu thương vô điều kiện. Mỗi khi nghĩ về mẹ, trái tim tôi lại trào dâng một niềm biết ơn sâu sắc và một tình cảm kính yêu không gì sánh bằng.

Mẹ tôi là một người phụ nữ bình dị, với đôi bàn tay chai sạn vì bao vất vả, với gương mặt hằn lên những dấu vết của thời gian và những lo toan cuộc sống. Mẹ không có những lời nói hoa mỹ, những hành động phô trương, nhưng tình yêu thương mẹ dành cho chúng tôi lại bao la như biển cả, âm thầm như dòng chảy của con sông quê hương. Từ những bữa cơm nóng hổi mẹ thức khuya dậy sớm chuẩn bị, đến những bộ quần áo được giặt giũ phẳng phiu, thơm tho, tất cả đều thấm đẫm sự quan tâm, chăm sóc tỉ mỉ của mẹ.

Tôi nhớ những ngày còn bé, mỗi khi tôi ốm đau, mẹ luôn là người thức trắng đêm bên cạnh, lo lắng từng cơn ho, từng giấc ngủ. Bàn tay mẹ dịu dàng xoa trán, giọng mẹ ấm áp ru tôi vào giấc ngủ say. Khi tôi gặp khó khăn trong học tập hay vấp ngã trong cuộc sống, mẹ luôn là người động viên, khích lệ, trao cho tôi niềm tin và sức mạnh để vượt qua mọi thử thách. Mẹ không bao giờ than vãn về những khó khăn, vất vả mà luôn âm thầm gánh chịu, dành tất cả những điều tốt đẹp nhất cho con cái.

Đức hy sinh thầm lặng của mẹ là điều khiến tôi cảm phục và trân trọng hơn bao giờ hết. Mẹ đã dành cả tuổi thanh xuân, cả cuộc đời mình cho gia đình, cho con cái. Mẹ gác lại những ước mơ, những hoài bão riêng để vun vén cho hạnh phúc gia đình. Mẹ tần tảo sớm hôm, làm lụng vất vả để chúng tôi có được cuộc sống đầy đủ, được ăn học đến nơi đến chốn. Có lẽ, mẹ chưa bao giờ kể hết những khó khăn, những nhọc nhằn mà mẹ đã trải qua, nhưng tôi hiểu rằng, mỗi nếp nhăn trên khuôn mặt mẹ, mỗi sợi tóc bạc trên mái đầu mẹ đều là minh chứng cho sự hy sinh cao cả ấy.

Tình yêu thương của mẹ không chỉ thể hiện qua những hành động chăm sóc vật chất mà còn qua sự giáo dục, định hướng cho chúng tôi trên con đường trưởng thành. Mẹ dạy chúng tôi về đạo lý làm người, về lòng trung thực, sự biết ơn và tinh thần trách nhiệm. Mẹ là người thầy đầu tiên, người bạn tâm tình đáng tin cậy, luôn lắng nghe, thấu hiểu và đưa ra những lời khuyên chân thành.

Giờ đây, khi đã trưởng thành và có cuộc sống riêng, tôi càng thấm thía hơn những hy sinh thầm lặng mà mẹ đã dành cho tôi. Tôi biết rằng, không có ngôn từ nào có thể diễn tả hết được tình yêu thương bao la và sự hy sinh cao cả của mẹ. Mẹ là ánh sáng soi đường, là nguồn động lực vô tận, là bến bờ bình yên để tôi luôn tìm về sau những giông bão của cuộc đời.

Trong trái tim tôi, mẹ luôn là người phụ nữ vĩ đại nhất, là người mà tôi yêu thương và kính trọng nhất. Tôi nguyện sẽ luôn trân trọng những gì mẹ đã dành cho tôi, sẽ cố gắng sống thật tốt để không phụ lòng mẹ. Hình ảnh người mẹ thân yêu với đức hy sinh thầm lặng sẽ mãi là một tượng đài vững chắc trong tâm hồn tôi, là nguồn sức mạnh và là ngọn lửa sưởi ấm trái tim tôi suốt cuộc đời.

ĐỀ 6“Ở các nước Âu – Mỹ, lấy ví dụ ở Pháp hiện nay, trung bình một người dân Pháp đọc tới 20 cuốn sách/năm, đối với người dân sống ở thành phố, tầng lớp tri thức, con số đó lên tới 30-50 cuốn/năm (Nguyễn Hương, bài “Người Việt ít đọc sách: Cần những chính sách để thay đổi toàn diện”). Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu...
Đọc tiếp

ĐỀ 6

“Ở các nước Âu – Mỹ, lấy ví dụ ở Pháp hiện nay, trung bình một người dân Pháp đọc tới 20 cuốn sách/năm, đối với người dân sống ở thành phố, tầng lớp tri thức, con số đó lên tới 30-50 cuốn/năm (Nguyễn Hương, bài “Người Việt ít đọc sách: Cần những chính sách để thay đổi toàn diện”). Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu dân mà tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách dạng tinh hoa, “khó nhằn”. Ở một quốc gia gần hơn trong cộng đồng ASEAN, đó là Malaysia, số lượng sách được đọc trên đầu người là 10-20 cuốn/người/năm (2012, số liệu từ ông Trần Trọng Thành, công ty sách điện tử Aleeza). Và ở Việt Nam, theo con số do Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công bố ngày 12/04/2013 ngay trước thềm sự kiện “Ngày hội Sách và Văn hóa Đọc”, số lượng sách một người Việt đọc trong một năm là… 0,8 cuốn, nghĩa là người Việt Nam đọc chưa đầy một cuốn sách trong một năm.

Có sự tương quan rõ ràng giữa văn hóa đọc và sự phát triển của một quốc gia. Với những con số ở trên, dễ hiểu vì sao nước Pháp lại có một nền kinh tế, văn hóa và nghệ thuật rạng rỡ như vậy. Và nước Nhật có thể đứng dậy thần kỳ sau Thế chiến 2 cũng như vươn lên quật khởi sau bao thiên tai liên miên, hiện đang là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới với nền khoa học-công nghệ tiên tiến bậc nhất. Malaysia đang là ngôi sao mới ở khu vực ASEAN với những chính sách đổi mới và mở cửa đột phá gần đây. Và người Do Thái với câu chuyện ở đầu bài, một dân tộc 13 triệu dân nhưng sinh ra gần 40% chủ nhân của các giải Nobel; 1/3 trên tống số các nhà triệu phú đang sống và làm việc tại Mỹ là người Do Thái; 20% giáo sư tại các trường đại học hàng đầu hiện nay; 3 nhân vật sau Công nguyên cho đến hiện tại có tác động lớn nhất đến lịch sử nhân loại là Chúa Jesus, Karl Marx và Alber Einstein…là người Do Thái.

Mỗi người Việt chưa đọc nổi một cuốn sách/năm, ai có thể khẳng định không liên quan đến tình trạng suy thoái toàn diện từ kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội cũng như nhân cách con người hiện nay ở Việt Nam?

(Ngẫm về “tủ rượu” của người Việt và “tủ sách” của người Do Thái - Báo mới)

Câu 1. Đoạn trích trên có thể xếp vào thể loại nào?

Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là gì ?

Câu 3. Đoạn trích trên có mấy đoạn văn?

Câu 4. Các từ sau thuộc loại từ nào : tri thức, quật khởi, thiên tai, chủ nhân, suy thoái, nhân cách

Câu 5. Đáp án nào sau đây nêu lên chính xác nghĩa của từ thần kì” trong đoạn trích trên?

Câu 6. Tác dụng của trạng ngữ trong câu “Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu dân mà tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách dạng tinh hoa, “khó nhằn”” là gì?
Câu 7. Theo em, vấn đề mà tác giả muốn bàn luận qua đoạn trích trên là gì?
Câu 8. Em hãy cho biết nội dung chính của đoạn trích trên là gì?

Câu 9. Em hãy nêu lên ba tác dụng của việc đọc sách đối với bản thân.

Câu 10. Em hãy nêu thể loại sách mà em thích đọc nhất? Vì sao em thích đọc thể loại đó.

Câu 11.Thuyết minh về một lễ hội mà em biết.

1
DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
3 tháng 5

Câu 1. Đoạn trích trên có thể xếp vào thể loại nghị luận xã hội.

Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là nghị luận.

Câu 3. Đoạn trích trên có ba đoạn văn.

Câu 4. Các từ sau thuộc loại từ danh từ:

Câu 5. thiếu đáp án

Câu 6. Tác dụng của trạng ngữ trong câu “Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu dân mà tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách dạng tinh hoa, “khó nhằn”” là: Các trạng ngữ này giúp cung cấp thông tin chi tiết về thời gian, địa điểm, bối cảnh, làm rõ hơn về văn hóa đọc ở Nhật Bản và tăng tính thuyết phục cho lập luận của tác giả.

Câu 7. Theo em, vấn đề mà tác giả muốn bàn luận qua đoạn trích trên là tình trạng đọc sách ít ỏi của người Việt Nam so với các quốc gia phát triển và mối tương quan giữa văn hóa đọc với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và nhân cách con người. Tác giả bày tỏ sự lo lắng về thực trạng này và ngầm đặt ra câu hỏi về những hệ lụy mà nó có thể gây ra cho sự phát triển toàn diện của Việt Nam.

Câu 8. Nội dung chính của đoạn trích trên là so sánh số lượng sách đọc trung bình của người Việt Nam với người dân ở các nước Âu - Mỹ, Nhật Bản, Malaysia và người Do Thái, từ đó nhấn mạnh sự khác biệt lớn và gợi ra mối liên hệ giữa văn hóa đọc thấp kém với tình trạng suy thoái trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam.

Câu 9. Ba tác dụng của việc đọc sách đối với bản thân em:

+ Mở rộng kiến thức và hiểu biết:

+ Phát triển tư duy và khả năng ngôn ngữ:

+ Bồi dưỡng tâm hồn và cảm xúc:

Câu 10. Thể loại sách mà em thích đọc nhất là văn học, đặc biệt là tiểu thuyết. Em thích đọc tiểu thuyết vì:

- Tính hấp dẫn của cốt truyện: Những câu chuyện hư cấu thường có những tình tiết lôi cuốn, bất ngờ, khơi gợi sự tò mò và hứng thú của em khi theo dõi diễn biến của nhân vật và sự kiện.

- Khám phá thế giới nội tâm nhân vật: Tiểu thuyết cho phép em đi sâu vào thế giới cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật, giúp em hiểu rõ hơn về những khía cạnh khác nhau của con người và những mối quan hệ xã hội phức tạp.

- Tính sáng tạo và giàu ý nghĩa: Các tác phẩm văn học thường chứa đựng những thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về những giá trị nhân văn, khơi gợi những suy ngẫm và cảm xúc trong em sau khi đọc. Ngoài ra, cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo và giàu hình ảnh của các nhà văn cũng là điều em yêu thích.

Câu 11. Thuyết minh về Lễ hội Nghinh Ông ở Cần Giờ

Lễ hội Nghinh Ông là một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất và đặc sắc nhất của ngư dân vùng biển Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ hội thường được tổ chức vào khoảng giữa tháng Tám Âm lịch hàng năm, kéo dài từ hai đến ba ngày với nhiều hoạt động văn hóa, tín ngưỡng phong phú, thể hiện lòng biết ơn của người dân đối với Thần Cá Ông (Cá Voi) - vị thần bảo hộ của biển cả, cầu mong mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy khoang.

Lễ hội Nghinh Ông có nguồn gốc từ tục thờ cúng cá voi của ngư dân ven biển Nam Bộ. Họ tin rằng cá voi là loài vật linh thiêng, thường cứu giúp tàu thuyền gặp nạn trên biển. Khi cá voi chết dạt vào bờ, người dân sẽ tổ chức chôn cất long trọng và thờ cúng như một vị thần. Lâu dần, tục lệ này phát triển thành lễ hội Nghinh Ông, mang đậm dấu ấn văn hóa biển của vùng đất Cần Giờ.

Phần lễ chính của lễ hội bao gồm nhiều nghi thức trang trọng. Đoàn nghinh Ông sẽ di chuyển bằng thuyền rồng được trang hoàng lộng lẫy ra biển để nghinh rước linh vị Ông về lăng. Đi đầu đoàn là các thuyền chở cờ phướn, lân sư rồng, đội nhạc lễ. Khi đoàn thuyền trở về, các nghi thức cúng tế, dâng hương được cử hành tại lăng Ông với sự tham gia đông đảo của người dân và du khách.

Bên cạnh phần lễ trang nghiêm, lễ hội Nghinh Ông còn có nhiều hoạt động văn hóa, thể thao sôi nổi, thu hút đông đảo người tham gia. Các trò chơi dân gian như kéo co, đẩy gậy, đua thuyền, hát bội, múa lân sư rồng được tổ chức, tạo không khí vui tươi, náo nhiệt. Đặc biệt, các buổi biểu diễn hát bội thường tái hiện những tích tuồng cổ về biển cả và các vị thần, mang đậm giá trị văn hóa truyền thống.

Lễ hội Nghinh Ông ở Cần Giờ không chỉ là một hoạt động tín ngưỡng mà còn là dịp để cộng đồng ngư dân gắn kết, thể hiện tinh thần đoàn kết và lòng tự hào về truyền thống văn hóa của quê hương. Lễ hội cũng là một sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc, thu hút du khách thập phương đến khám phá và trải nghiệm những nét độc đáo của vùng biển Cần Giờ. Với những giá trị văn hóa và lịch sử to lớn, Lễ hội Nghinh Ông đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Cần Giờ và góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa đa dạng của Thành phố Hồ Chí Minh.


DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
3 tháng 5

Đề tài: Cảm hứng về vẻ đẹp của sự lao động và sáng tạo, thể hiện qua hình ảnh con ong làm mật tại công trường làm đường.

3 tháng 5

chơi game solo levining đi anh chị chơi 10 lần nghiện lun

em chơi rồi hay lắm nhưng phải chơi trên pc hihi


3 tháng 5

nghiêm túc đi

1. Nội dung bài thơ "Đất nước"

Nội dung bài thơ "Đất nước" chủ yếu thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng và khát vọng bảo vệ đất nước của tác giả. Tuy nhiên, Nguyễn Đình Thi không chỉ dừng lại ở việc ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, mà còn làm nổi bật một sự thật sâu sắc: đất nước không chỉ là một hình thể địa lý, mà là tinh thần, là sự kết tụ của mọi cảm xúc, chiến công, của sự hy sinh và đoàn kết của nhân dân qua các thời kỳ lịch sử.

Trong bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã làm nổi bật một khái niệm rất mới mẻ về đất nước. Đất nước không chỉ là lãnh thổ, là núi sông, là biển cả mà còn là tâm hồn, là ký ức, là quá trình đấu tranh không ngừng của dân tộc. Chính vì vậy, tác giả đã xác định rằng: "Đất nước này là của chúng ta / Đất nước này là của những người đang sống, và của những người đã hy sinh." Đây là một quan điểm sâu sắc, cho thấy đất nước chính là kết quả của sự đóng góp, hy sinh của tất cả thế hệ đi trước và sự tiếp nối, bảo vệ của thế hệ hiện tại.

Nguyễn Đình Thi cũng thể hiện rõ trong bài thơ rằng đất nước là nơi in dấu những chiến công, những con đường lịch sử, nơi khát vọng tự do, độc lập của dân tộc được hun đúc và phát triển qua bao thế hệ. Những hình ảnh "hạt gạo nương" hay "dòng sông, ngọn núi" chính là biểu tượng của đất nước, không chỉ là hình ảnh thiên nhiên mà còn là sự sinh tồn, sự gắn bó mật thiết với đời sống của con người.

Đặc biệt, bài thơ cũng thể hiện tình yêu đất nước trong những hình ảnh rất bình dị và thân thuộc, như "dòng sông, ngọn núi," "cánh đồng lúa," "con đường mòn." Điều này giúp bài thơ gần gũi, dễ hiểu, nhưng cũng thể hiện sự kính trọng đối với những giá trị giản dị, bình thường mà quan trọng của đất nước.

2. Hình thức nghệ thuật của bài thơ

Bài thơ "Đất nước" được viết theo thể thơ tự do, không bị ràng buộc bởi các quy tắc về vần điệu hay nhịp điệu chặt chẽ. Tuy nhiên, sự tự do trong thể thơ lại giúp tác giả thể hiện cảm xúc, suy tư một cách chân thật và tự nhiên nhất. Hình thức tự do này tạo ra sự phóng khoáng, giúp bài thơ trở nên mềm mại và dễ dàng diễn đạt được những suy tưởng, những cảm xúc của tác giả về đất nước.

Nguyễn Đình Thi sử dụng rất nhiều hình ảnh, ẩn dụ, biểu tượng trong bài thơ. Ví dụ, "Đất nước này là của chúng ta" không chỉ đơn thuần là một câu khẳng định mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về quyền sở hữu và trách nhiệm đối với đất nước. Các hình ảnh thiên nhiên như "ngọn núi, dòng sông" cũng không chỉ là những cảnh vật đơn giản mà là hình ảnh mang tính biểu tượng cho sự vững chắc, bền bỉ và trường tồn của đất nước.

Ngoài ra, bài thơ còn sử dụng những câu thơ ngắn, mạnh mẽ, tạo sự nhấn mạnh, khiến người đọc cảm nhận được sự tha thiết, khẩn thiết của tác giả khi nói về đất nước. Các từ ngữ như "Đất nước này," "Của chúng ta," "Của những người hy sinh" đã khắc sâu trong tâm trí người đọc về tính chất thiêng liêng và bất diệt của đất nước.

3. Đánh giá chung

Tóm lại, "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ có nội dung sâu sắc và hình thức nghệ thuật đặc sắc. Qua bài thơ, tác giả không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của đất nước mà còn thể hiện sự khẳng định, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với đất nước. Những hình ảnh, ẩn dụ trong bài thơ làm cho tác phẩm trở nên sinh động, gợi cảm, khiến người đọc dễ dàng cảm nhận được tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc. Hình thức thơ tự do cũng giúp Nguyễn Đình Thi tự do bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của mình về đất nước một cách chân thành và tự nhiên nhất.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
3 tháng 5

Bài thơ "Đất Nước" của Nguyễn Đình Thi, một sáng tác tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, không chỉ là tiếng lòng thiết tha yêu nước mà còn là một công trình nghệ thuật đặc sắc, kết hợp hài hòa giữa nội dung tư tưởng sâu sắc và hình thức biểu đạt tài hoa. Bài thơ đã khắc họa một cách chân thực, xúc động hình ảnh đất nước Việt Nam đau thương mà anh dũng, khơi gợi niềm tự hào và ý chí chiến đấu mạnh mẽ trong lòng người đọc.

Về nội dung, "Đất Nước" nổi bật với sự cảm nhận sâu sắc và toàn diện về Tổ quốc. Mở đầu bài thơ là những dòng thơ giản dị, chân thực, gợi lên hình ảnh đất nước gần gũi, thân thương qua những cảnh sắc quen thuộc: "Sáng mát trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới". Nguyễn Đình Thi đã khéo léo sử dụng những chi tiết bình dị như "sáng mát", "hương cốm mới" để唤起 ký ức về một đất nước thanh bình, tươi đẹp trước khi chiến tranh tàn phá.

Tuy nhiên, mạch thơ nhanh chóng chuyển sang những gam màu trầm lắng, thể hiện nỗi đau và sự kiên cường của dân tộc trong cuộc kháng chiến: "Đất nước mình đây, dài lâu thế/ Bốn nghìn năm ròng rã khổ đau". Câu thơ với nhịp điệu chậm rãi, sử dụng con số "bốn nghìn năm" đầy sức nặng lịch sử đã khái quát chiều dài gian khổ mà dân tộc ta đã trải qua. Hình ảnh "khổ đau" được nhấn mạnh, gợi lên những mất mát, hy sinh to lớn của nhân dân trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.

Điểm đặc sắc trong nội dung bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu đất nước cụ thể, gần gũi với tình yêu Tổ quốc thiêng liêng, vĩ đại. Nguyễn Đình Thi không chỉ cảm nhận đất nước qua những hình ảnh hữu hình mà còn đi sâu vào những giá trị tinh thần, những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam: "Ôi Tổ quốc ta, yêu như máu thịt/ Như mẹ hiền, như vợ, như chồng". Cách so sánh độc đáo, đặt Tổ quốc ngang hàng với những tình cảm thiêng liêng nhất của con người đã thể hiện một tình yêu sâu sắc, gắn bó, không thể tách rời.

Đặc biệt, bài thơ đã khắc họa nổi bật hình ảnh người dân Việt Nam anh dũng, kiên cường trong cuộc kháng chiến. Họ hiện lên không chỉ là những người chịu đựng gian khổ mà còn là những người chủ động đứng lên chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc: "Người Việt Nam, máu đỏ da vàng/ Đứng lên! Thét vang như sóng vỗ". Câu thơ với nhịp điệu mạnh mẽ, hình ảnh "thét vang như sóng vỗ" đã thể hiện khí thế hào hùng, tinh thần quật cường của cả dân tộc.

Về hình thức nghệ thuật, "Đất Nước" của Nguyễn Đình Thi mang đậm dấu ấn của sự sáng tạo và tài hoa. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, phóng khoáng, phù hợp với việc diễn tả những cảm xúc mãnh liệt và sự vận động linh hoạt của mạch thơ.

Nguyễn Đình Thi đã sử dụng một loạt các biện pháp tu từ đặc sắc, góp phần tạo nên vẻ đẹp và sức lay động cho bài thơ. Phép so sánh được sử dụng một cách sáng tạo và hiệu quả, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn tình yêu đất nước của tác giả: "yêu như máu thịt", "như mẹ hiền, như vợ, như chồng". Phép liệt kê với những hình ảnh cụ thể, gần gũi đã tái hiện một cách sinh động vẻ đẹp của đất nước: "Ruộng đồng ta xanh mát vụ chiêm/ Nắng hè trải lúa chín thơm hương".

Nhịp điệu của bài thơ có sự thay đổi linh hoạt, phù hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và nội dung. Những khổ thơ đầu mang nhịp điệu chậm rãi, trữ tình, gợi nhớ về một đất nước thanh bình. Khi nói về cuộc kháng chiến, nhịp thơ trở nên mạnh mẽ, dứt khoát, thể hiện khí thế hào hùng của dân tộc.

Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Đình Thi vừa giản dị, tự nhiên, mang đậm hơi thở của cuộc sống, vừa giàu sức gợi cảm và biểu tượng. Những từ ngữ như "sáng mát", "hương cốm mới", "dài lâu", "khổ đau", "thét vang" được sử dụng một cách tinh tế, góp phần khắc họa rõ nét hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.

Âm hưởng của bài thơ vừa trang trọng, hùng vĩ, vừa thiết tha, trữ tình. Chất hùng ca được thể hiện qua những hình ảnh mạnh mẽ, khí thế quật cường của dân tộc. Chất trữ tình thể hiện qua những cảm xúc sâu lắng, tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước. Sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho "Đất Nước".