K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

20 tháng 6 2019

Nghệ thuật nhân hóa: 'bóng tre trùm lên âu yếm làng,bản ,xóm ,thôn;tre ăn ở với người đời đời ,kiếp kiếp'

Tác dụng : giúp cho tác giả dễ dàng khẳng định tre đã có từ rất lâu, nó rất chung thủy ,gần gũi với con người Việt , nó như một người mẹ luôn chăm sóc ,bảo vệ các con trong mọi hoàn cảnhvui

20 tháng 6 2019

1 .lịch sử 

2. đường đời 

lịch sử

đường đời

học tốt

nha

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

- Nghệ thuật so sánh nhân hóa cho thấy cảnh biển hoàng hôn vô cùng tráng lệ, hùng vĩ. Mặt trời được ví như một hòn lử khổng lồ đang từ từ lặn xuống. Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng là then cửa. Chi tiết Mặt trời xuống biển có thể gây ra sự thắc mắc của người đọc vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà ở bờ biển nước ta, trừ vùng Tây Nam thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Thực ra hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây, qua một khoảng biển thì vẫn có thể thấy như là mặt trời xuống biển. Với sự quan sát tinh tế nhà thơ đã miêu tả rất thực chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm.

biện pháp tu từ là so sánh

tác dụng Mặt trời được ví như một hòn lử khổng lồ đang từ từ lặn xuống

C
19 tháng 6 2019

Bờ vai :))

19 tháng 6 2019

nên đăng những câu ko bt lm lên diễn đàn

trả lời : 

bờ vai

hk tốt

trả lời

Châu Nam Cực

học tốt,nhớ k nha

trả lời :

nam cực

chúc bn hk tốt !!!!!!!!!

20 tháng 6 2019

Trả lời :

- Câu nghi vấn dùng để cầu khiến .

- Câu nghi vấn dùng để bộc lộ tình cảm .

- Câu nghi vấn dùng để khẳng định .

- Câu nghi vấn dùng để phủ định .

       - Study well -

Con số 39

Bị ướt

Tên Huệ

Cầu vòng

Bánh bao

Chúc bn học tốt

20 tháng 7 2019

đáp án:

1) số 39

2) bị ướt

đúng  chưa các bạn

19 tháng 6 2019

Khi mày nghĩ ngu

19 tháng 6 2019

uk tao nghĩ ngu thì mày nghĩ cực ngu

Con người Việt Nam với những sức mạnh nội lực phi thường đã đi qua những năm tháng vất vả và gian lao của đất nước luôn là một mảnh đất màu mỡ để văn học dày công khai phá. Qua những tác phẩm văn học, chân dung con người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ từ những em bé ngây thơ, đáng yêu đến những bậc trung niên hay lão thành đều hiện lên thật sinh động. Điều đó được thể hiện qua nhóm nhân vật: ông Hai (Làng - Kim Lân), người thanh niên (Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long), ông Sáu và bé Thu (Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng), ba cô gái thanh niên xung phong (Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê).

       Những nhân vật, những tác phẩm trên ra đời trong những năm tháng cả dân tộc đang gắng sức lao động, chiến đấu để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Ông Hai (Làng - Kim Lân) được xây dựng năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng chiến chông Pháp thiếu thốn, khó khăn. “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ra đời năm I960, miền Bắc đang ra sức lao động sản xuất “mỗi người làm việc bằng hai” để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện cho miền Nam đánh Mĩ. Cha con ông Sáu trong “Chiếc lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng sáng tác trong lửa đạn của cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt những năm 1966. Và ba cô gái Phương Định, Thao, Nho “Những ngôi sao xa xôi” được Lê Minh Khuê cho ra đời năm 1977. Có thể nói, ở mỗi nhân vật đều phảng phất mùi vị của thuốc súng chiến trường và mồ hôi lao động. Từng thế hệ con người đã sống đúng với chính mình để hòa mình vào những năm tháng khẩn trương, sôi động của đất nước.

         Trẻ em Việt Nam được hiện lên một phần cơ bản qua hình ảnh bé Thu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Đó là những cô bé, cậu bé cá tính nhưng hồn nhiên, đáng yêu và có tình cảm yêu - ghét rất mãnh liệt. Bé Thu trong tác phẩm là cô bé sắc sảo, cá tính. Trong khi cả gia đình và họ hàng, làng xóm thừa nhận ông Sáu là chồng, là cha, là anh em họ hàng,... của họ thì bé Thu giữ vững suy nghĩ non nớt ngây thơ của mình kiên quyết không nhận cha. Trong suốt những ngày ông Sáu ở nhà, dù ông ra sức yêu thương vỗ về nhưng nó vẫn xa lánh ông, quyết liệt từ chối... Tính cách ấy cho phép ta liên tưỏng đến sự gan dạ, thông minh, không gì mua chuộc được của những em bé giao liên, dẫn đường cho cán bộ hay những em nhỏ trong đội thiếu niên Bát sắt đã được nhắc đến trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.

      Không chỉ vậy, các em còn là những đứa trẻ sống rất tình cảm, yêu gia đình yêu quê hương tha thiết. Bé Thu trong câu chuyện trên phản ứng quyết liệt với ông Sáu lúc ban đầu cũng chỉ bởi vết sẹo tai hại. Nhưng khi hiểu ra mọi điều, nó lao vào ông mà ôm, mà hôn, mà níu kéo “con không cho ba đi”. Thu cũng yêu ba một tình yêu cháy bỏng và cảm động. Thiếu nhi Việt Nam cũng vậy, các em luôn dành những tình cảm tốt đẹp nhất cho cha mẹ, người thân và những gì thân thuộc nhất của mình.

        Những tính cách đáng quý của tuổi nhỏ đã phát triển thành đức tính quý báu ở những chàng trai, cô gái Việt Nam tuổi mười tám đôi mươi. Họ có tấm lòng yêu nước kiên định, có lí tưỏng sống cao đẹp, gan dạ, dũng cảm và một tâm hồn trong trẻo ăm ắp tình yêu thương. Bản thân bé Thu lớn lên đã trở thành một cô giao liên dũng cảm xinh đẹp nổi tiếng nhiều chiến trường bởi sự gan dạ, mưu lược. Ba cô gái trong “Những ngôi sao xa xôi” cũng không kém phần. Các cô làm nhiệm vụ san lấp hố bom trên tuyến đường Trường Sơn đạn lửa. Hàng ngày, hàng giờ các cô ở dưới sự oanh tạc bom đạn cửa kẻ thù, có những khoảnh khắc nghẹt thở trực tiếp tháo gỡ bom mìn... Dẫu vậy, họ luôn hoàn thành nhiệm vụ, trở thành điểm tựa, niềm tin cho những chuyến hàng, những cuộc hành quân vào miền Nam ruột thịt. Sông giữa nơi sự sống và cái chết tranh giành nhau quyền ngự trị nhưng họ không để tâm hồn mình tàn lụi mà luôn dạt dào niềm lạc quan yêu đời, yêu sống. Họ hiểu và yêu thương những người đồng đội. Tâm hồn họ nhạy cảm, tinh tế, sông mãi những mộng mơ của thiếu nữ tuổi mười tám đôi mươi. Trong cơn mưa rào chốn oai linh rừng đại ngàn những cô gái chẳng khác nào con trẻ. Không đối mặt với bom đạn chiến trường nhưng anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” lại có những cách riêng để cống hiến cho sự nghiệp chung của đất nước. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đình Yên Sơn heo hút của Sa Pa vời vợi. Đó là công việc đất nước trao cho anh và dù gặp nhiều gian nan vất vả anh vẫn hoàn thành nó bằng tình yêu công việc, bằng lí tưởng sống vô cùng cao đẹp. Anh làm việc ở đó một mình - trên đỉnh Yên Sơn cao hơn hai nghìn mét. Từng giây từng phút đối mặt với nỗi cô đơn, sự khắc nghiệt của thời tiết, sự vất vả của công việc. Nhưng anh vẫn lạc quan, yêu đời yêu sống,...

      Tuổi trẻ Việt Nam, nhắc đến họ là nhắc đến sức mạnh của ý chí, của lòng tin, sự quả cảm phi thường và cả những mộng mơ, những nụ cười tiếng hát. Tâm hồn họ như một dòng sông, vốn chảy êm đềm dịu mát nhưng những lúc cần có thể cuộn lên thành triều cường giông tố cuốn trôi đi mọi rác rưởi cuộc đời.

      Trầm lắng hơn, điềm đạm hơn là tâm hồn của thế hệ những người cha, người ông trên mảnh đất chữ S diệu kì này. Nhưng dầu thế nào, ở họ vẫn toát lên vẻ chân thành giản dị nhất của tình cảm con người. Đó là tình cảm đối với con cái, với những người thân yêu. ông Sáu trong “Chiếc lược ngà” có một tình yêu dành cho con gái thật cảm động. Tình yêu ấy ông nung nấu trong suốt gần chục năm đi kháng chiến. Khi trở về, tình cảm ấy bùng cháy thành những yêu thương, hụt hẫng, giận hờn... với đứa con ngây thơ, nhỏ dại. Khi được con nhận là ba, ông vui sướng biết bao và dồn tất cả tâm sức vào việc làm tặng con chiếc lược ngà quý giá. Ở nhân vật này, ta thấy toát lên tình phụ tử thiêng liêng sâu nặng. Với ông Hai trong truyện ngắn “Làng” cũng vậy. Với ông, con cái là điểm tựa tinh thần vững chắc. Khi đau khổ nhất ông cũng thủ thỉ tâm sự với đứa con thơ để cởi mở hết lòng mình với nó.

      Tình yêu gia đình, người thân là cội nguồn cùa tình yêu quê hương đất nước. Điều này được thể hiện sinh động hơn cả ở nhân vật ông Hai. Ông yêu cái làng cùa mình như đứa con yêu mẹ. Đi đâu ông cũng khoe làng, khoe với tất cả sự say mê náo nức lạ kì. Khi nghe tin làng theo giặc, ông đau khổ, tủi hờn như chính mình là kẻ theo giặc, phản bội Tổ quốc. Phải có một tình cảm máu thịt với nơi chôn rau cắt rốn của mình mới có được những cảm xúc lạ lùng đến vậy. Dẫu yêu làng đến vậy, ông vẫn sẵn sàng “thù làng” nếu cái làng ấy phản bội nhân dân, phản bội Cụ Hồ. Đó là những cảm xúc đặc biệt nó khẳng định tình yêu làng xóm, quê hương đã gắn liền với tình yêu đất nước. Những tình cảm riêng đã gắn bó chặt chẽ với những tình cảm chung lớn lao hơn. Và nếu cần thiết, họ có thể gạt bỏ niềm riêng để sống trọn vẹn cho những tình cảm cao quý, thiêng liêng của cộng đồng.

        Bởi có được những suy nghĩ và tình cảm sâu sắc như thế, thế hệ trung niên, lão thành là điểm tựa của cách mạng Việt Nam. Nó là thế hệ người đứng nơi đầu sóng ngọn gió để trực tiếp chiến đấu và hi sinh cho Tổ quốc. Ông Sáu trong “Chiếc lược ngà” là một người như vậy. Ông thấm thía hơn ai hết nhiệm vụ thiêng liêng của bản thân mình đối với đất nước và ông đã hiến dâng tất cả những gì mình có cho dân tộc. Bảy tám năm đi chiến đấu, dù nhớ nhà nhớ con khôn nguôi ông vẫn không rời chiến trường nửa bước. Ngày ông hết hạn nghỉ phép cũng là lúc con gái ông nhận cha. Ông đã muốn ở lại xiết bao dù chỉ là vài giây ngắn ngủi nhưng tiếng giục lên đường đã vang lên và ông đủ sức mạnh để cất bước.

        Có thể nói, những thế hệ người Việt chân chính đã được tái hiện sinh động trong một cảm hứng và quan điểm nhất quán, lôgic. Sợi dây xuyên suốt đời sống tinh thần con người Việt Nam là tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước và sự cống hiến hết mình cho những gì mình yêu quý, tôn thờ. Điều này lí giải vì sao trong bao lần cuộc chiến tranh chống xâm lược, lần nào chúng ta cũng chiến đấu và chiến thắng. Một chân lí thật đơn giản nhưng ít kẻ thù nào hiểu được: người Việt Nam đã ra trận với khí thế, với tinh thần được kết từ mấy ngàn năm trong lớp lớp các thê hệ người Việt anh hùng.

Ong Sau

Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về tình cha - con và nỗi đau trong chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ. Ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề ấy.

Ông Sáu, một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia 2 cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi sinh. Ra đi đánh giặc từ năm 1946 mãi đến năm 1954, hòa bình lập lại, ông mới được về thăm quê một vài ngày. Ngày ra đi bộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của ông mới lên một tuổi, ngày về thì con đã 8, 9 luổi. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi “ba” một tiếng cũng không trọn vẹn! Đó là bi kịch thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ "nhận ra" ba mình và kêu thét lên: "Ba... ba!". Ông ôm con "rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con". Ông Sáu đã ra đi với nỗi nhớ thương vợ con không thể nào kể xiết. Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo dài trên má phải - vết thương chiến tranh - đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé bỏng không nhận ra gương mặt người cha nữa! Ông đã ra đi, mang theo hình ảnh vợ con, với lời hứa mang về cho con gái chiếc lược cùng với nỗi ân hận day dứt "sao mình lại đánh con ” cứ giày vò ông mãi. Nỗi đau, nỗi nhớ thương và mất mát... do quân giặc đem đến cho ông Sáu, cho bao người lính, cho bao bà mẹ, em thơ trên khắp mọi miền đất nước ta có bao giờ nguôi! Sự hi sinh của thế hệ đi trước để làm nên độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình là vô giá.

Sau năm 1954, ông Sáu không tâp kết ra Bắc, ông nhận nhiệm vụ mới ở lại miền Nam "nằm vùng" hoạt động bí mật. Trong những ngày ở rừng, ở cứ bị giặc ruồng bố triền miên. Thiếu gạo phải ăn bắp. Gian khổ và nguy hiểm. Cái chết bủa vây cuộc chiến đấu thầm lặng. Ông Sáu vẫn không nguôi nhớ vợ con. Ông đã biến vỏ đạn 20 li của giặc Mĩ thành chiếc cưa nhỏ, đã tỉ mỉ, kiên nhẫn và khéo léo như một người thợ bạc chế tác khúc ngà voi thành một chiếc lược ngà xinh xắn có khắc dòng chữ: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Chiếc lược ngà với dòng chữ ấy mang theo bao tình cảm sâu nặng của người cha đối với đứa con bé bỏng. Tình thương con của ông Sáu thật vô cùng tha thiết. Điều đó cho thấy, ông Sáu cũng như hàng triệu chiến sĩ, đồng bào ta hi sinh chiến đấu vì đất nước và dân tộc, vì hạnh phúc gia đình, vì tình vợ chồng, tình cha con.

Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng của người lính về tình phụ - tử sâu nặng mà bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được. Chính vì thế, khi bị trúng đạn máy bay Mỹ bắn vào ngực, lúc hấp hối, ông "đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho bạn, nhìn bạn hồi lâu rồi tắt thở... Ông Sáu đã hi sinh trong những ngày đen tối và gian khổ. Ngôi mộ ông là "ngôi mộ bằng phẳng như mặt rừng". Nhưng chỉ có "tình cha con là không thể chết được!".

Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện Chiếc lược ngà sâu nặng tình cha - con, chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng đi trước mở đường đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh.

Truyện Chiếc lược ngà và hình ảnh ông Sáu, bé Thu đã khơi gợi trong lòng ta bao ý nghĩ về tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Và bài học "uống nước nhớ nguồn "càng thêm thấm thía.

GN
GV Ngữ Văn
Giáo viên
10 tháng 7 2019

Phép ẩn dụ được sử dụng trong bài thơ trên:

- "Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi": khác với miếng trầu têm cánh phượng khéo léo trang trọng, câu thơ cho thấy sự giản dị, bình thường nhất. Vẫn là quả cau, miếng trầu nhưng lại không được toàn vẹn, ý nói sự nghèo khó, thiếu thốn, không hoàn hảo. Người phụ nữ chỉ có sự khéo léo, tấm lòng nhưng lại nghèo khó,...

- "Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá bạc như vôi": ý nói nếu giữa cô gái và chàng trai có tình cảm với nhau thì hãy như sự xúc tác giữa miếng trầu và vôi, khi nhai sẽ tạo ra màu đỏ. Đừng như vẻ bề ngoài: trầu lá xanh, vôi bạc trắng. Như thế ẩn dụ ấy cho thấy niềm mong muốn của Hồ Xuân Hương trong tình yêu: con người đừng như những thực thể xa cách mà hãy yêu nhau hết lòng, dành tình cảm cho nhau. Điều này cũng được thể hiện trong nhiều vần thơ khác của Hồ Xuân Hương: Làm lẽ, Tự tình,... => không muốn chia sẻ tình cảm, không muốn người mình yêu năm thê bảy thiếp....