K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Giúp em với ạ!!!!!!!! “Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông vẫn ôm mối tình đầu chưa nhiều ngang trái. Tôi yêu trong nắng sớm, 1 thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây nưa nhiệt đới bất ngờ, tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thuỷ tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động,...
Đọc tiếp

Giúp em với ạ!!!!!!!!

“Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông vẫn ôm mối tình đầu chưa nhiều ngang trái. Tôi yêu trong nắng sớm, 1 thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây nưa nhiệt đới bất ngờ, tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thuỷ tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng trong buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở...”

1. Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản

2. Nêu chủ đề và đặt nhan đề cho văn bản

3. ‘Sài Gòn’ trong cảm nhận của nhân vật ‘tôi’ hiện lên như thế nào? Tình cảm của nhân vật tôi đối với Sài Gòn được thể hiện như thế nào trong văn bản?

4. Xác định những biện pháp tu từ đặc sắc được sử dụng trong văn bản và nêu tác dụng của chúng

4
12 tháng 10 2018

Giúp em với ạ!!!!

13 tháng 10 2018

Giúp em với ạ!!!! Em cảm ơn nhiều ạ!!

14 tháng 12 2018

Nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ là một em bé có tâm hồn nhạy cảm, trái tim giàu yêu thương. Chính nét tính cách và vẻ đẹp này đã chi phối cái nhìn, sự quan sát của Liên.

- Bức tranh phố huyện lúc chiều tà:

+ Liên lặng ngắm hoàng hôn, và trong cửa hàng hơi tối, khi tiếng muỗi vo ve, Liên cảm thấy buồn: "Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái thời khắc của ngày tàn. Trong đôi mắt chị, bóng tối ngập đầy dần."

+ Liên thấy thương lũ trẻ xóm chợ nghèo nơi phố huyện, chúng nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre mà người bán hàng bỏ lại: "Trông thấy chúng, chị động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó".

+ Liên và An cùng phụ mẹ trông cửa tiệm tạp hóa, bởi vậy, Liên, là chị cả, nên đã rất nghe lời mẹ. Liên chỉ ngồi trong chiếc chõng tre và ngó con mắt thèm thuồng theo những trò chơi của đám trẻ dưới phố chứ không dám hòa mình vào cuộc vui ấy.

+ Liên còn rất quan tâm tới mọi người xung quanh, Liên hỏi thăm chị Tí dọn hàng nước, thương chị làm ăn cần mẫn cả ngày mà vẫn không ăn thua gì. Liên rót rượu đầy cho cụ Thi điên và trân trọng cụ.

+ Liên tỏ ra là một người chị trưởng thành, Liên thấy mình người lớn hơn khi buộc và đeo chiếc dây xà tích (một loại ví, túi đựng tiền) đựng tiền hàng.

- Cảnh phố huyện khi đêm xuống:

+ Khi đêm xuống, Liên lặng ngắm cảnh phố huyện và cảm nhận được hương vị ban đêm, những cánh hoa bàng rơi khe khẽ trên vai. Liên ngẩng cổ nhìn bầu trời đêm chi chít sao và lặng mơ tưởng những sao thần nông, dải ngân hà, cả vũ trụ đầy bí ẩn, xa lạ, làm mỏi trí nghĩ.

+ Liên quan tâm đến những kiếp người nhỏ bé: Lặng ngắm chị Tí bán hàng. Lặng ngắm gia đình bác Xẩm ế hàng, bác chưa hát vì chưa có khách nghe và thằng con thì bò ra ngoài manh chiếu nghịch nhặt những rác bẩn, đất cát bên đường. Liên lặng ngắm gánh phở của Bác Siêu rồi thèm thuồng nhớ về Hà Nội: "Hà Nội xa xăm, vui vẻ, sáng rực và huyên náo". Hà Nội với những cốc nước lạnh xanh đỏ, được đi ăn kem bờ hồ. Liên lặng ngắm cuộc sống và hồi tưởng về quá khứ. Điều này đã cho thấy sự nhạy cảm trong tâm hồn Liên.

+ Liên còn cố thức để trông đợi được ngắm chuyến tàu, đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Nếu không phải đứa trẻ nhạy cảm và có tâm hồn giàu rung động thì Liên đã không thức để đợi ngắm một chuyến tàu. Liên có thể dọn dẹp cửa hàng và về nhà từ sớm. Điều này đã làm nổi bật vẻ đẹp và tâm trạng của nhân vật Liên.

- Cảnh phố huyện khi chuyến tàu qua.

+ Khi chuyến tàu qua, Liên đánh thức An rồi ngắm nghía chuyến tàu qua trong sự say mê. Chuyến tàu như mang một thế giới khác đi qua. Đó là ánh sáng của quá khứ, của tương lai, của sự sung túc giàu có mà phố huyện nghèo tràn đầy bóng tối kia không có được.

+ Khi chuyến tàu đã đi qua, trả lại cho phố huyện sự yên tĩnh tịch mịch. Âm thanh duy nhất lúc này còn lại chỉ là tiếng tù và, tiếng cho cắn dội lại từ những thôn xóm xa. Liên thấy mình như sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết, rồi chị cũng chìm dần vào giấc ngủ, tịch mịch và đầy bóng tối.

=> Diễn biến tâm trạng Liên trong Hai đứa trẻ đó là: buồn man mác, nhớ thương, xót xa, rồi chìm vào yên tĩnh, tịch mịch. Liên chìm vào giấc ngủ là lòng lắng lại.

=> Với cốt truyện đơn giản, Thạch Lam đã diễn tả được trạng thái mơ hồ, mong manh, tinh tế trong tâm hồn Liên, Liên là nhân vật trung tâm, đồng thời cũng là nhân vật tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam.

26 tháng 9 2020

Nhắc đến những nhà thơ trào phúng trung đại thì người ta nhớ đến đầu tiên có lẽ là Trần Tế Xương. Quả thật thơ ông mang những nét trào phùng đặc biệt nhất, nó không nhẹ nhàng nhưng thâm thúy sâu cay như Nguyễn Khuyến mà nó sâu cay, cười mỉa mai trước những cái sự đời. Cũng giống như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương cũng có bài thơ tự cười mình, không chỉ cười xã hội mà ông còn cười chính bản thân mình. Và cũng chính vì thế mà Nguyễn Khuyến có bài tự trào thì Trần Tế Xương cũng có bài Thương vợ. Nhan đề bài thơ gợi lên cho ta tình cảm của nhà thơ dành cho người vợ mình nhưng đồng thời nội dung bài thơ còn thể hiện một tiếng cười về bản thân bất tài vô dụng của Trần Tế Xương.

Hai câu thơ mở đầu Trần Tế Xương đã kể lên những nỗi vất vả của người vợ thương yêu của mình. Đó là sự vất vả được hiện lên và mục đích của công việc ấy:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Hình ảnh người vợ của Trần Tế Xương hiện lên giống như những người phụ nữ, người mẹ nào trong hình dáng người phụ nữ ngày xưa với cái nghề buôn bán. Chỉ cần có thế mà biết bao nhiêu hình ảnh giản dị hay lam hay làm của người phụ nữ xưa hiện ra. Đó là hình ảnh người phụ nữ áo nâu váy đụp gánh tất cả những hàng hóa trên đôi vai nhỏ bé của mình ra chợ rồi lại từ chợ về nhà. Người vợ của nhà thơ hiện lên cũng với hình ảnh ấy và công việc ấy đặc biệt rằng công việc ấy được diễn ra thường xuyên qua hai từ “quanh năm”. Người phụ nữ ấy làm việc vất vả quanh năm cũng chỉ một công việc đó từ năm này qua năm khác. Thế nhưng địa điểm không phải trên những mặt đất bằng phẳng mà lại ở mom sông gợi sự vất vả, nguy hiểm. Như vậy vợ nhà thơ là một người không những vất vả mà còn phải đối mặt với nguy hiểm. Thế nhưng bà Tú làm như vậy để được gì, không chỉ nuôi bản thân mình mà bà Tú còn phải nuôi đủ "năm con với một chồng”. Ở đây nhà thơ đang tự cười chính bản thân mình. Chồng cũng trở thành một con số đếm ngang hàng với những đứa con trong gánh nặng của người vợ. Không những thế còn là “nuôi đủ” càng chứng tỏ gánh nặng của người vợ kia. Giờ đây quang gánh kia không chỉ đơn giản là những mặt hàng của bà nữa mà trên đó còn có cả năm con với một người chồng.

Sang hai câu thơ tiếp theo người chồng gánh nặng kia lại tiếp tục thể hiện lòng thương vợ của mình và những vất vả mà bà Tú phải trải qua hàng ngày:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Ông chồng người mà được coi là trụ cột của gia đình không chỉ về tinh thần mà còn về kinh tế nhưng giờ đây lại là gánh nặng của vợ mình. Bà Tú phải lặn lội với những nguy hiểm khi đi vào những con đường vắng mà chỉ có một mình. Hình ảnh con cò trong câu ca dao xưa tượng trưng cho người phụ nữ nghèo khổ lại được nhà thơ sử dụng trong bài thơ của mình. Không biết rằng có biết bao nhiêu những khó khăn và nguy hiểm đang rình dập và nuốt lấy vợ mình. Vượt qua những nguy hiểm khó khăn ấy bà Tú vẫn đi đến chợ mom sông trên những buổi đò eo sèo những lời của người mua kẻ bán. Họ đang mặc cả với nhau từng đồng một để lo cho gia đình mình.

Và rồi nhà thơ nói đến duyên phận của mình với vợ và như thay vợ nói lên cái thở dài chán nản trước một người chồng mà lại gánh nặng như một người con thứ sáu trong nhà:

“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công. ”

Người xưa hay có quan niệm về duyên và nợ, hai người lấy nhau thì là có duyên có nợ từ kiếp trước, còn yêu nhau mà không lấy được nhau thì đó là có duyên nhưng không có nợ. Ở đây bà Tú lại có duyên có cả nợ với nhà thơ nên mới chịu cảnh khó khăn khổ cực như thế. Một chữ duyên, hai chữ nợ, thôi thì đành phận với nhau. Nhà thơ lại thể hiện sự vất vả của vợ mình qua “năm nắng, mười mưa”. Câu thơ ấy như gợi lên sự khó nhọc mà trong ca dao cũng nhắc đến như “một nắng hai sương”. Có thể thấy rằng chính cái số đếm cụ thể ấy đã làm nổi bật lên sự khó nhọc của bà Tú. Thế nhưng Bà Tú còn hiện lên đẹp hơn khi không quản công gánh nặng ấy. Bà thương chồng thương con và hi sinh cho chồng con mà không một lời than vãn.

Nhưng chính sự không than vãn và đức hi sinh ấy khiến cho nhà thơ không thể nào yên lòng được:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Thương vợ Trần Tế Xương cũng như đang tự cười bản thân mình và hai câu thơ cuối này là tiếng chửi to nhất, sâu cay nhất. Tác giả tự thấy bản thân mình ăn ở bạc không thể giúp đỡ được gì cho người vợ chân yếu tay mềm hơn mình rất nhiều, ngẫm thấy có chồng cũng như không. Phải chăng nhà thơ đang chửi rủa dằn vặt chính bản thân mình vì không thể nào giúp đỡ cho vợ?

Qua đây ta thấy nhà thơ Trần Tế Xương thể hiện sự thương vợ sâu sắc. Bài thơ giống như một bức thư, một dòng nhật kí mà nhà thơ muốn gửi đến vợ mình. Đặc biệt bản thân ông ý thức rõ được sự vô dụng của mình mà tự thấy xấu hổ mà tự chửi chính mình. Nói tóm lại dù thế nào đi nữa thì qua đây chúng ta cũng biết được tâm trạng và tình cảm của Trần Tế Xương dành cho vợ mình.

24 tháng 10 2018

1+1=2

Bn hết việc làm rùi hả

Mẹ Và Con Tác giả: Xuân Quỳnh Viết cho Tuấn Anh - Mẹ ơi, bông hoa kia Là của ai hở mẹ? Cái màu xanh trên cửa Kia nữa là của ai? - Của con đấy con ơi Đều của con tất cả Cái màu xanh trên cửa Cái bông hoa cuối vườn Ông mặt trời chiều hôm Tiếng chim kêu buổi sáng Cái mặt ao lẳng lặng Có con cá đang bơi Cái dòng sông trôi trôi Có con thuyền mới đỗ... Là của con cả đó Cả mẹ cũng của con. Con ôm mẹ con hôn: -...
Đọc tiếp

Mẹ Và Con

Tác giả: Xuân Quỳnh
Viết cho Tuấn Anh

- Mẹ ơi, bông hoa kia
Là của ai hở mẹ?
Cái màu xanh trên cửa
Kia nữa là của ai?

- Của con đấy con ơi
Đều của con tất cả
Cái màu xanh trên cửa
Cái bông hoa cuối vườn
Ông mặt trời chiều hôm
Tiếng chim kêu buổi sáng
Cái mặt ao lẳng lặng
Có con cá đang bơi
Cái dòng sông trôi trôi
Có con thuyền mới đỗ...
Là của con cả đó
Cả mẹ cũng của con.

Con ôm mẹ con hôn:
- Của con sao nhiều thế?
- ừ của con nhiều quá
Nhưng mẹ lại nhiều hơn
Vì tất cả của con
Mà con là của mẹ.
câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản
câu 2: Xác định thể thơ của văn bản
câu 3:xác định và nêu tác dụng của biện pháp tu từ chính được sử dụng trong văn bản

1
28 tháng 10 2018

Câu 1 : PTBĐ chính : Tự sự

Câu 2 : Thể thơ : Thơ năm chữ

Câu 3 : Biện pháp tu từ chính : Liệt kê

15 tháng 10 2018

1. Nỗi lòng thương vợ của nhà thơ được thể hiện qua việc miêu tả những vất vả, cơ cực của bà Tú:

a/ Hai câu đề: Giới thiệu về công việc và công lao của bà Tú.

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

- Câu 1: chứa đựng 3 thông tin

+ Bà Tú làm nghề buôn bán (gạo)

+ “Quanh năm” chỉ vòng thời gian tuần hoàn, ngày nối ngày, tháng tiếp tháng, năm tiếp theo năm, dường như không có lúc nghỉ.

+ “Mom sông” chỉ địa điểm kiếm sống, là phần đất nhô ra phía lòng sông, chênh vênh, nguy hiểm.

=> Bà Tú hiện lên trong câu thơ với biết bao khó nhọc, gian truân. Vòng quay vô kì hạn của thời gian đã cuốn bà vào cuộc mưu sinh đầy vất vả.

- Câu 2: Vai trò trụ cột gia đình của bà Tú.

+ “nuôi đủ” tức là đủ về số lượng 6 miệng ăn, chưa kể chính bà’; là đủ về thành phần – chồng và con; là đủ ăn, đủ mặc, đủ cả cho những thú vui của ông Tú.

+ “năm con với một chồng: cách đếm con đếm chồng rất đặc biệt. Tú Xương tách mình riêng ra, đặt mình sau con nghĩa là tự thấy hổ thẹn về cái vô tích sự của mình, ông tự thấy mình cũng là thứ con đặc biệt của bà Tú, mà một ông còn nặng gánh hơn cả năm đứa con thơ dại. Câu thơ thấp một nụ cười của ông chồng “dài lưng tốn vải”- nụ cười méo mó, đáng thương.

=> Tóm lại: 2 câu đề đã khắc họa thành công chân dung bà Tú – người vợ đảm đang, tháo vát, phải chịu nhiều vất vả, gian truân.

b/ Hai câu thực: Tô đậm hơn những khổ cực của bà Tú trong cuộc mưu sinh

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

- Phép đảo ngữ: đẩy “lặn lội” “eo sèo” lên đầu câu, tô đậm nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà Tú trong cuộc mưu sinh.

- Hình ảnh bà Tú được miêu tả qua phép ẩn dụ “thân cò” đầy ám ảnh, gợi dáng dấp nhỏ bé, chịu đựng, bơ vơ, côi cút đến tội nghiệp.

- “Khi quãng vắng”, “buổi đò đông”: bối cảnh làm việc đầy nguy hiểm bởi không người chở che, lại phải chen lấn, xô đẩy, bon chen nhọc nhằn.

=> Tóm lại: Câu 3,4, với hình ảnh ẩn dụ “thân cò”, phép đảo ngữ, từ tạo hình “lặn lội”, từ tượng thanh “eo sèo” đã khắc sâu hơn nỗi nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh của bà Tú. Đằng sau đó, ta còn thấy tiếng uất nghẹn của một người chồng nhìn thấy nỗi cơ cực của vợ mà không thể đỡ đần. Và hơn cả là nỗi niềm thương xót, cảm phục và biết ơn vợ sâu sắc của Tú Xương.

c/ Hai câu luận:

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

- “Duyên”: quan hệ vợ chồng do trời định sẵn. “Nợ” là gánh nặng phải chịu, vợ chồng lấy nhau tốt đẹp là “duyên”, ngang trái là “nợ”.

- Thành ngữ và cách nói tăng cấp “một duyên hai nợ” “năm nắng mười mưa” đã khắc họa cuộc đời cơ cực, tủi nhục của bà Tú. Bà với ông Tú, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Ông Tú tự thấy mình là một gánh nợ trong suốt cuộc đời người vợ. Nhưng người mẹ, người vợ đó không hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam khác, bà làm mọi việc một cách tự nhiên, âm thầm, không hề đòi hỏi, oán trách. Bà Tú coi đó như một lẽ thường tình, nào có kể công.

- Cách nói cam chịu “âu đành phận” “dám quản công” là ông Tú ngao ngán về chính mình, xót xa cho thân phận bà Tú mà thốt lên, mà kể công thay cho bà vậy! Câu thơ như nén một tiếng thở dài não nề của chính người chồng.

===> 6 câu đầu khắc họa hình ảnh bà Tú trong vất vả gian truân vẫn ngời lên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống– người vợ, người mẹ đảm đang, tháo vát, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương chồng con. Hình ảnh bà Tú vì thế vừa đáng thương lại vừa đáng trọng.

2. Hình ảnh ông Tú trong câu cuối cũng thể hiện nỗi lòng thương vợ của ông

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không!

a/ Một người biết yêu thương, quý trọng, tri ân vợ:

- Thể hiện qua lời kể, lời tính công cho vợ “nuôi đủ năm con với một chồng”.

b/ Con người có nhân cách – thể hiện qua lời tự trách:

- Cách nói “một duyên hai nợ”: coi mình là gánh nặng của vợ.

- Tiếng chửi ném vào cuộc đời và ném vào chính mình:

+“thói đời”: là những quy tắc hà khắc của chế độ phong kiến, phân biệt đối xử, trọng nam khinh nữ, coi việc nhà, việc mưu sinh là của đàn bà, đàn ông không được đụng tay đến, khiến người chồng không được giúp đỡ vợ. Là thói vô tâm của các ông chồng. Là cái xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẻ ra thói đời bạc bẽo, những bất công vô lí của nó khiến ông cứ hỏng thi mãi, cứ làm kẻ ăn bám vợ, suốt đời đi thi mà chưa trả hết ơn nghĩa của vợ, để bà Tú mãi quẩn quanh trong cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền nơi bờ sông cuối bãi.

-> Tiếng chửi xuất phát từ tình yêu thương và lòng biết ơn vợ vô bờ bến.

=> Ông Tú cũng vừa đáng trọng vừa đáng thương.

Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi : Ngay từ đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa hương đẩy bước chân ta, thúc bách ta phải tèo lên đỉnh núi để vào chùa trong, rồi ra chùa ngoài.Ta tiến lại gần một cửa hàng bán phở: thật là cả một bài trí nên thơ.Qua lần cửa kính ta đã thấy gì? Một bó hành hoa xanh như lá mạ, dặm quả ớt đỏ buộc vào một cái dây.vài miếng thịt...
Đọc tiếp

Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi :

Ngay từ đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa hương đẩy bước chân ta, thúc bách ta phải tèo lên đỉnh núi để vào chùa trong, rồi ra chùa ngoài.Ta tiến lại gần một cửa hàng bán phở: thật là cả một bài trí nên thơ.Qua lần cửa kính ta đã thấy gì? Một bó hành hoa xanh như lá mạ, dặm quả ớt đỏ buộc vào một cái dây.vài miếng thịt bò tươi và mềm, chín có, tái có, sụn có,... Người bán hàng đứng thái bánh, thái thịt luôn tay, thỉnh thoảng lại mở nắp một cái thùng sắt để lấy nước dùng chan vào bát . Một làn khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ những người ngồi ăn ở chung quanh trong 1 làn sương mỏng,mơ hồ như một bức tranh tàu vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu.

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt của đoạn văn.

Cau2: Theo tác giả, mùi phở có một sức huyền bí quyến rũ như thế nào?

Câu 3: chỉ ra những phép tu từ được sd trong đoạn văn. Ghi rõ những câu văn có sd phép tu từ đó?

Câu 4: nêu khái quát nội dung của đoạn văn =1 câu văn?

1
8 tháng 10 2018

Câu 1 : Phương thứ biểu đạt : Miêu tả + Biểu cảm

Câu 2: Theo tác giả,mùi phở có một sức huyền bí quyến rũ : " Ngay từ đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa hương đẩy bước chân ta, thúc bách ta phải tèo lên đỉnh núi để vào chùa trong, rồi ra chùa ngoài ''

Câu 3 :

- So sánh :

+ Ngay từ đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa hương đẩy bước chân ta

+ Một bó hành hoa xanh như lá mạ

+ Một làn khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ những người ngồi ăn ở chung quanh trong 1 làn sương mỏng,mơ hồ như một bức tranh tàu vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu.

Câu 4 : " Hương vị quyến rũ, đậm đà của phở "

8 tháng 10 2018

Thank <3

6 tháng 10 2018

Ba bài thơ là một sự chuyển biến tâm lí rất lôgíc mà cũng mang nặng một bi kịch của người phụ nữ gặp trắc trở trong hạnh phúc lứa đôi. Nếu Tự tình I là một khao khát mãnh liệt đến không chịu nổi của tác giả, giọng thơ mang đầy vẻ thách thức, nhất quyết không cam chịu một số phận hẩm hiu: Tài tử văn nhân ai đó tá? / Thân này đâu đã chịu già tom.

Đến Tự tình II, những đợi chờ, hi vọng dần bị thời gian tàn nhẫn làm cho chai sạn, lạnh lùng, làm nguội đi trái tim đang bừng bừng khao khát của tác giả Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con... Càng hi vọng bao nhiêu thì càng thất vọng bấy nhiêu, Hồ Xuân Hương dần trở nên ngao ngán và mất niềm tin vào cuộc đời. Và khi Tự tình III được đặt bút, là khi tác giả đã chìm xuống tận cùng của hố sâu thất vọng, bà không còn mong mỏi điều gì nữa, mà buông xuôi, để mặc cho số phận đưa đẩy Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh/ Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh. Ôi, còn đâu là con người mạnh mẽ, cá tính, bướng bĩnh, không chịu khuất phục điều gì. Thế mới biết số phận tàn nhẫn có thể làm lạnh lùng cả một tâm hồn cứng rắn nhất, mạnh mẽ nhất, biến nó thành thờ ơ, vô cảm. Và đó quả thật là một bi kịch, bi kịch của những người phụ nữ gặp éo le trong số phận cuộc đời:

Đềm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non

Mở đầu bài thơ là một âm thanh khá âm vang và đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng, dù mãnh liệt đến mấy, tiếng trống cũng vẫn chỉ là âm thanh duy nhất trong đêm vắng, nếu không có nó thì đêm khuya sẽ trở nên vô cùng vắng lặng. Cái động đã được sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp vợ chồng, là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có một người phụ nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy hay vì cả đêm người phụ nữ ấy đã không ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi niềm? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gợi đến một điều vô cùng đáng sợ đối với một người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: Tuổi già. Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy vào tâm can tác giả, nó âm vang, trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ, không tài nào dứt ra được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và ta tự hỏi, đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong đời sống thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về một bi kịch đang đến gần hơn với bà.... Trơ cái hồng nhan với nước non. Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập, thì cũng là lúc cái hồng nhan ngày một trơ ra với đời. Hồng nhan là một từ dùng để chỉ nhan sắc, chỉ gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ.

Đó là điều không phải, bất cứ người phụ nữ nào cũng có được, điều này khiến họ hết sức tự hào, hết sức coi trọng và nâng niu. Nhưng từ cái gắn liền với hồng nhan như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống, đập tan bao nhiêu niềm tự hào, bao nhiêu trân trọng mà biến hồng nhan trở thành một thứ đồ vật tầm thường không hơn không kém. Hồng nhan để làm gì khi nửa đêm phải tỉnh giấc, trong cái trống trải lạnh lẽo đến đắng cay? Hồng nhan để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cửu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn? Tác giả ý thức được nhan sắc của mình nhưng cũng ý thức được những bất hạnh và chua xót mà mình đã, đang và sẽ phải nếm trải. Và khi nỗi đau lên đến đĩnh điểm, người phụ nữ sẽ trở nên trơ ra với nước non, với cuộc đời. Từ trơ được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô cảm, lạnh lùng, thờ ơ trước những đớn đau đã trở nên quá quen thuộc. Còn gì đau xót hơn khi những bất hạnh lại trở thành một điều gì đó rất thường tình, cứ đeo đẳng, bám lấy con người ta và thậm chí khiến người ta trở nên nhàm chán, mất hết cảm xúc và trở nên trơ ra như gỗ đá?

Chưa hết, từ trơ trong câu thơ còn mang một nghĩa khác, một hàm ý cay đắng và chua xót không kém: Trơ trọi. Tác giả nhận thấy mình không có gì cả, không có tình yêu, không có hạnh phúc, chỉ đơn độc, lẻ loi một mình trong cuộc đời này. Từ trơ đặt ở đầu câu cộng với cách ngắt nhịp 1/3/3 đẩy từ trơ tách biệt một mình đã xoáy sâu, nhấn mạnh vào tẩm trạng cay đắng, tủi hổ và bẽ bàng của bà. Câu thơ như một lời đay nghiến, mỉa mai chính mình, có hồng nhan mà phải trơ ra như thế. Thật đáng thương cho số phận của nhà thơ, đáng thương cho một kiếp người tài hoa mà bất hạnh. Và cũng thật đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức bởi những hủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan...

Nhưng dù đáng thương, chua xót đến mức nào, chúng ta vẫn phải công nhận một bản lĩnh Xuân Hương rất đáng nể phục trong hai câu thơ, khi mà trơ không chỉ là một sự bẽ bàng hay vô cảm mà còn là thách thức. Trơ kết hợp với nước non và hồng nhan được xếp ngang tầm thiên nhiên vũ trụ đã cho ta thấy sự can đảm, dám đương đầu với những gì lớn lao nhất, khó khăn nhất của bà. Đó quả thật là một ý chí đáng nể phục, một bản lĩnh đáng ngưỡng mộ của Hồ Xuân Hương.

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Hai câu thơ vẽ lên một khung cảnh rất thật mà cũng chứa chan bao nỗi niềm của tác giả. Một người phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình trong đêm vắng thì quả là một sự bất hạnh. Con người ta chỉ uống rượu vì hai mục đích: Một là để sẻ chia và hai là để quên sầu. sẻ chia là khi con người ta nhất định phải uống cùng bạn bè, đặc biệt là tri kỉ, để nói lên những nỗi lòng, tâm sự cho nhau nghe và nhận lại được sự cảm thông và thấu hiểu. Chẳng thế mà Nguyễn Khuyến từng viết: Rượu ngon không có bạn hiền / Không mua không phải không tiền không mua. Còn khi muốn quên sầu, là lúc con người ta đang ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có một ai để có thể chia sẻ nỗi niềm và ta chỉ còn biết tìm quên trong men rượu, một mình. Nhưng liệu chén rượu có làm tan đi bao nỗi cô đơn, tủi nhục trong lòng hay Hồ Xuân Hương? Bà uống rượu mà như uống bao giọt sầu giọt tủi, như nuốt từng giọt đắng giọt cay. Chén rượu là chén sầu mà người uống chẳng thể đổ đi được mà chỉ có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà lại trở lại trong chính tâm trí mình. Say lại tỉnh. Uống rượu có thể say, nhưng sau cơn say người ta sẽ lại tỉnh. Tỉnh rồi, người ta mới nhận ra, hương rượu còn để lại vị đắng chát trên đầu lưỡi. Và những đau khổ, chua xót sau cơn say càng được nhân lên vạn lần. Cụm từ này đã cho ta thấy một vòng luẩn quần, đầy bế tắc rất đỗi xót xa của tác giả. Bà cứ bị đẩy qua đẩy lại liên hồi trong vòng tuần hoàn nghiệt ngã của số phận. Và ta nhớ đến một hình ảnh bẽ bàng tủi nhục của nàng Kiều ngày nào Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh/ Giật mình mình lại thương mình xót xa... Đến câu thơ tiếp theo, nỗi đau lại tiếp tục được thể hiện rõ ràng và đậm nét. Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. Có vẻ như Hồ Xuân Hương đã ngồi một mình bên chén rượu như thế đến hết đêm, đến tận khi mặt trăng bóng xế, nhường chỗ cho một ngày mới. Bà cứ ngồi uống rượu và ngắm trăng như vậy, như mong chờ một sự đồng cảm và sẻ chia. Nhưng bà đã nhìn thấy gì? Một sự đồng cảm chăng? Hay bà chỉ thấy số phận dở dang của mình đang hiện diện trong một vầng trăng khuyết? Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho những ước mơ và hy vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức khuyết chưa tròn, một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đời còn dang dở với những éo le, trắc trở trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết ngày mai trăng sẽ lại khuyết tiếp hay sẽ tròn. Ánh trăng sáng lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong nó một nỗi cô đơn, trống vắng. Và bóng xế đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ trước tuổi thanh xuân đang mất đi. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Xuân Hương đang dần mất đi mà tình duyên vẫn không được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng sinh động ngoại cảnh mà cũng bộc lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu trong lòng bà.

Nhưng dù có thất vọng, dù có đau xót, chán chường đến mức nào, Hồ Xuân Hương vẫn là một người phụ nữ đầy bản lĩnh. Và sâu thẳm trong tâm trí bà, dù yếu ớt đến đâu vẫn luôn lóe lên một ánh lửa khát khao, hy vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên thay đổi cuộc sống của mình. Hai câu thơ tiếp theo đã nói lên điều ấy:

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn...

Một hình ảnh thiên nhiên rất dữ dội, đầy cử động, giống như tính cách bướng bỉnh, không chịu khuất phục điều gì của chính tác giả vậy. ở Hồ Xuân Hương, sự buồn tủi bao giờ cũng gợi nên những phản ứng tích cực. Bà không buông xuôi, không đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách để thay đổi vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. Hai câu thơ tương như chỉ miêu tả cảnh vật xung quanh, nhưng chính đặc điểm của những cảnh vật đó đã được dùng để bộc lộ tâm trạng của con người. Hàng loạt động từ mạnh, đầy sắc thái biểu cảm như xiên, đâm được đảo lên đầu câu cùng với những bổ ngữ độc đáo, ấn tượng đi kèm với nó đã thể hiện rất rõ cảm xúc của bà. Rêu xiên ngang, dàn trải như bao phủ khắp cả mặt đất. Không phải xiên dọc hay xiên chéo gì cả mà phải là xiên ngang, những tảng rêu như chọc thủng mặt đất để đâm lên một cách đầy ngang tàng, ngạo nghễ.

Đá đâm toạc chĩa lên nhọn hoắt đầy đe dọa như muốn xuyên thủng cả bầu trời. Và cũng chẳng phải đâm thủng hay đâm xuyên gì hết mà là đâm toạc, tảng đá dường như đã bị dồn nén tất cả những căm hận, phẫn uất mà đâm thẳng lên, xé toạc tất cả những gì đang gò bó, áp đặt chúng. Chỉ là những cảnh vật bình thường, không có gì đặc biệt như rêu và đá, nhưng qua cái nhìn đầy ấm ức, bất mãn của tác giả, chúng đã trở nên vô cùng sống động. Cử động, nổi loạn, phá phách, muốn đập tan những gì gò bó để được tự do vùng vẫy giữa đất trời, thiên nhiên hòa hợp với con người, đặc điểm thiên nhiên cũng chính là nỗi niềm của nhân vật. Và ta cũng thấy được tâm trạng phẫn uất của Hồ Xuân Hương với tuổi già và những luật lệ phong kiến cũng như số phận hẩm hiu đang tàn nhẫn ra tay bóp chết hạnh phúc của bà.

Những uất hận ấy bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến không chịu nổi chỉ chực vỡ òa ra, bà khao khát muốn đạp tung tất cả, muốn lật đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà vẫn chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì tất cả vẫn chỉ kết thúc trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa.... Mặc dù ta vẫn phải công nhận, đây là một suy nghĩ vô cùng mới mẻ, một tư tưởng đi trước thời đại,
một tính cách hoàn toàn khác biệt so với những người phụ nữ thời bấy giờ. Đó là một bản lĩnh, một cá tính Xuân Hương đáng trân trọng...

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con...

Những khát khao, vùng vẫy, nổi loạn cuối cùng cũng đã bị dập tắt trong sự chán chường, bất lực. Hồ Xuân Hương đã không thể vượt khỏi thân phận mình, vị thế nhỏ nhoi, cô độc của mình trong xã hội. Kết thúc bài thơ là một sự cam chịu được thốt lên trong một tiếng thở dài ngao ngán. Bà đã phát ngán, đã chán lắm rồi cái vòng xoay luẩn quẩn của số phận. Càng cố bao nhiêu thì càng thất bại bấy nhiêu, hi vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn, càng chua xót. Thế thì còn cố gắng đê làm gì nữa? Xuân, hình ảnh nổi bật trong câu thơ có thể là mùa xuân, cũng có thể là tuổi xuân của tác giả. Những mùa xuân cứ đến và đi, dòng thời gian cứ chầm chậm chảy, cũng có nghĩa là tuổi xuân của bà đang tuột mất từng ngày. Và nỗi đau của bà lại càng được nhân lên gấp bội. Hai chữ lại đứng ở cuối câu chứa đựng biết bao sự ngán ngẩm nặng nề của bà khi cảm nhận tuổi xuân đang trôi đi từng ít một.

Không phải xuân đến mà xuân lại vì nếu nói xuân đến có chút gì đó háo hức mong chờ nhưng xuân lại thì có chút gì đó ngán ngẩm, chán chường. Bà chán ghét số phận hẩm hiu của mình, chán ghét vòng tình duyên ngang trái luôn đeo đẳng, chán ghét hạnh phúc ít ỏi đến nỗi gần như không tồn tại. Mảnh tình, một cụm từ mang nặng nỗi trớ trêu của số phận. Tình yêu vốn là một điều gì đó thật cao cả thiêng liêng nhưng tình yêu của Hồ Xuân Hương lại như một mảnh vỡ nhỏ bé được san sẻ từ hạnh phúc của người khác. Tình yêu của bà rẻ mạt như một sự bố thí, như một thứ đồ vật đã qua sử dụng người ta vứt lại cho bà. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình lại là một thứ được chia năm sẻ bảy mà bà chỉ được nhận duy nhất một mảnh tí con con. Hạnh phúc của bà chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức tội nghiệp. Tình duyên như thế thì có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục đắng cay.

Cách dùng từ giản đơn mà vẫn vô cùng độc đáo đã cực tả nỗi niềm của tác giả. Hồ Xuân Hương ngang tàng thách thức đầy nổi loạn ở trên là thế, nhưng cuối cùng, tất cả vẫn chìm vào vô vọng trong sự bất lực tột cùng và chán chường mệt mỏi. Những cố gắng vùng vẫy của bà chỉ là vô ích, bởi số phận của bà vốn đã là một bi kịch và mãi mãi chỉ là một bi kịch mà thôi. Có lẽ trong giờ phút ấy, bà đã muốn buông xuôi, muốn bỏ mặc tất cả cho số phận đưa đẩy, bà đã mất hết hy vọng...


Liệu Hồ Xuân Hương có thể vượt qua tất cả để có thể trở lại là một người phụ nữ yêu đời, mạnh mẽ không sợ gì cả như ngày nào? Đó vẫn là một câu hỏi còn dở dang của những thân phận phụ nữ đem thân đi làm lẽ, phận người mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn mà chỉ nhỏ nhoi như một mảnh gương vỡ... Câu thơ đã diễn trả được đỉnh điểm bi kịch của Hồ Xuân Hương và cũng là của những người phụ nữ thời bấy giờ...

6 tháng 10 2018

Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài "Thu điếu”, nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.

“Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở nên “lạnh lẽo”. Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ - “bé tẻo teo". Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo”:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.

Các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.

Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài ba làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo"

Màu “biếc” của sóng hoà hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, “lá vàng" với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng với mức độ của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu": "Vèo trông lá rụng đầy sân”.

Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời "xanh ngắt" với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt":

- “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao".

(Thu vịnh)

- “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ”

(Thu ẩm)

- Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.

(Thu điếu)

“Xanh ngắt” là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (mây xám), mà xanh ngắt một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lão đong đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:

“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.

Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong một giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước “ao thu lạnh lẽo” đến “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”, từ “sóng biếc" đến "lá vàng", từ “tầng mây lơ lửng” đến “ngõ trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mọi con người Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!

Cái ý vị của bài thơ “Thu điếu” là hai câu kết:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

“Tựa gối ôm cần ” là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của một nhà thơ đã thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh “cá đâu đớp động” nhất là từ “đâu” gợi liên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh sạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ như đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại “Cá đâu đớp động dưới chân bèo". Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy - buồn cô đơn và trống vắng.

Âm thanh tiếng cá “đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỉ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc vàng của lá thu, ở màu “xanh ngắt” của bầu trời thu, ở làn “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”...

Thật vậy, bài thơ "Câu cá mùa thu’’ là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa "vèo” trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo - đó là nét dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao koài niệm đẹp về quê hương đất nước.

Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo vần "eo” đi vào bài thơ rất tự nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta: trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng-chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: “Cái thú vị của bài “Thu điếu" ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một vùng đậm nhạt của chiếc lá thu rơi...

Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc "Thu điếu”, "Thu vịnh”, “Thu ẩm”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyên, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.