K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:  Hai lần chết      Dung là con thứ bốn. Vì vậy khi nàng ra đời, không được cha mẹ hoan nghênh lắm. Thực ra, không phải cha mẹ nàng hất hủi con, vẫn coi người con như một cái phúc trời ban cho, nhưng lúc bấy giờ cha mẹ nàng đã nghèo rồi. Với ba người con trước, hai trai, một gái, cha mẹ Dung đã thấy khó nhọc, vất vả làm lụng mới lo đàn con...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

Hai lần chết

     Dung là con thứ bốn. Vì vậy khi nàng ra đời, không được cha mẹ hoan nghênh lắm. Thực ra, không phải cha mẹ nàng hất hủi con, vẫn coi người con như một cái phúc trời ban cho, nhưng lúc bấy giờ cha mẹ nàng đã nghèo rồi. Với ba người con trước, hai trai, một gái, cha mẹ Dung đã thấy khó nhọc, vất vả làm lụng mới lo đàn con đủ ăn, và hai con trai được đi học. Sau Dung lại còn con bé út nữa, nên cảnh nhà càng thêm túng bấn.

     […] Cha mẹ Dung cũng không nghĩ đến sự bắt nàng đi học như anh chị nàng, có lẽ vì nghĩ rằng lo cho hai người cũng đã đủ.

     Dung càng lớn càng gầy gò đi. Suốt ngày nàng chỉ chạy đánh khăng đánh đáo với lũ trẻ con nhà "hạ lưu"(1) - cha nàng gọi thế những người nghèo khổ trú ngụ ở chung quanh xóm chợ. Nhiều khi đi đâu về trông thấy, cha nàng gọi về, đánh cho mấy roi mây và cấm từ đấy không được chơi với lũ trẻ ấy. Những trận đòn xong, Dung lại mon men chơi với lũ trẻ, và thấy hình như cha nàng cũng chỉ cấm lấy lệ chứ không thiết gì đến, nàng lại vững tâm nhập vào bọn hạ lưu đó, suốt ngày dông dài ở ngoài chợ.

     Một đôi khi, mẹ nàng kịp về đến nhà trông thấy nàng quần áo lôi thôi lếch thếch và chân tay lấm, bùn, chỉ chép miệng thở dài nói:

     - Con này rồi sau đến hỏng mất thôi.

     Rồi bà lại quay đi buôn bán như thường, sau khi đã để lại cho chồng một món tiền tiêu pha trong nhà, và sau khi anh chị Dung mỗi người đã nũng nịu đòi được một hào để ăn quà.

     Dung thấy thế cũng chẳng ganh tị, vì nàng xưa nay đối với các anh chị cũng không thân thiết lắm. Những khi nàng đang chơi thấy đói, nàng lại chạy về xin u già bát cơm nguội hay thức ăn gì khác thế nào u già cũng đã để phần rồi chạy nhảy như một con vật non không biết lo nghĩ gì.

     Những sự ấy đã làm cho Dung có một cái tính an phận và nhẫn nại lạ lùng. Ngày trong nhà có tết nhất, các anh chị và em nàng được mặc quần áo mới vui chơi, còn nàng vẫn cứ phải áo cũ làm lụng dưới bếp, Dung cũng không ca thán hay kêu ca gì. Mà nàng biết kêu ca cũng không được. Nhiều lần nàng đã nghe thấy u già nói mẹ nàng may cho cái áo, thì mẹ nàng trả lời:

     - May cho con nặc nô ấy làm gì. Để nó làm rách nát ra à?

     Còn nói với cha thì Dung biết là vô công hiệu, vì cha nàng không dám tự ý làm cái gì bao giờ cả.

     […] Thế là Dung đi lấy chồng.

     Nàng đi lấy chồng cũng bỡ ngỡ và lạ lùng như người nhà quê lên tỉnh. Dung coi đi lấy chồng như một dịp đi chơi xa, một dịp rời bỏ được cái gia đình lạnh lẽo và cái xóm chợ quen mắt quá của nàng. Đi lấy chồng đối với nàng là hưởng một sự mới.

     Vì thế, khi bước chân lên ô tô về nhà chồng, Dung không buồn bã khóc lóc gì cả. Nàng còn chú ý đến những sự lạ mắt lạ tai của nhà giai, không nghe thấy những lời chúc hơi mát mẻ và ganh tị của hai chị và em bé nàng nữa.

     Về đến nhà chồng, Dung mới biết chồng là một anh học trò lớp nhì, vừa lẫn thẩn vừa ngu đần. Nàng đã bé mà chồng nàng lại còn bé choắt hơn. Nhưng bà mẹ chồng với các em chồng nàng thì to lớn ác nghiệt lắm.

     Qua ngày nhị hỉ, Dung đã tháo bỏ đôi vòng trả mẹ chồng, ăn mặc nâu sồng như khi còn ở nhà, rồi theo các em chồng ra đồng làm ruộng. Nhà chồng nàng giàu, nhưng bà mẹ chồng rất keo kiệt, không chịu nuôi người làm mà bắt con dâu làm.

     Khốn nạn cho Dung từ bé đến nay không phải làm công việc gì nặng nhọc, bây giờ phải tát nước, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt ngày. Đã thế lại không có người an ủi. Chồng nàng thì cả ngày thả diều, chả biết cái gì mà cũng không dám cãi lại bà cụ. Còn hai em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị mắng thêm.

     Những lúc Dung cực nhọc quá, ngồi khóc thì bà mẹ chồng lại đay nghiến:

     - Làm đi chứ, đừng ngồi đấy mà sụt sịt đi cô. Nhà tôi không có người ăn chơi, không có người cả ngày ôm lấy chồng đâu.

     Rồi bà kể thêm:

     - Bây giờ là người nhà tao rồi thì phải làm. Mấy trăm bạc dẫn cưới, chứ tao có lấy không đâu.

     Dung chỉ khóc, không dám nói gì. Nàng đã viết ba bốn lá thư về kể nỗi khổ sở của nàng, nhưng không thấy cha mẹ ở nhà trả lời.

     Một hôm tình cờ cả nhà đi vắng, Dung vội ăn cắp mấy đồng bạc trinh lẻn ra ga lấy vé tàu về quê. Đến nơi, mẹ nàng ngạc nhiên hỏi:

     - Kìa, con về bao giờ thế? Đi có một mình thôi à?

     Dung sợ hãi không dám nói rằng trốn về, phải tìm cớ nói dối. Nhưng đến chiều tối, nàng lo sợ quá, biết rằng thế nào ngày mai mẹ chồng nàng cũng xuống tìm. Nàng đánh bạo kể hết tình đầu cho cha mẹ nghe, những nỗi hành hạ nàng phải chịu, và xin cho phép nàng ở lại nhà.

     Cha nàng hút một điếu thuốc trong cái ống điếu khảm bạc, rồi trầm ngâm như nghĩ ngợi. Còn mẹ nàng thì đùng đùng nổi giận mắng lấy mắng để:

     - Lấy chồng mà còn đòi ở nhà. Sao cô ngu thế. Cô phải biết cô làm ăn thế đã thấm vào đâu mà phải kể. Ngày trước tôi về nhà này còn khó nhọc bằng mười chứ chả được như cô bây giờ đâu, cô ạ.

     Sớm mai, bà mẹ chồng Dung xuống. Vừa thấy thông gia, bà đã nói mát:

     - Nhà tôi không có phúc nuôi nổi dâu ấy. Thôi thì con bà lại xin trả bà chứ không dám giữ.

     Mẹ Dung cãi lại:

     - Ô hay, sao bà ăn nói lạ. Bây giờ nó đã là dâu con bà, tôi không biết đến. Mặc bà muốn xử thế nào thì xử. Chỉ biết nó không phải là con tôi nữa mà thôi.

     Bà nọ nhường bà kia, rút cục Dung được lệnh của mẹ phải sửa soạn để đi với mẹ chồng.

     Bị khổ quá, nàng không khóc được nữa. Nàng không còn hy vọng gì ở nhà cha mẹ nữa. Nghĩ đến những lời đay nghiến, những nỗi hành hạ nàng phải sẽ chịu, Dung thấy lạnh người đi như bị sốt. Nàng hoa mắt lên, đầu óc rối bời, Dung ước ao cái chết như một sự thoát nợ.

     Nàng không nhớ rõ gì. Ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết. Như trong một giấc mơ, Dung lờ mờ thấy cái thành cầu, thấy dòng nước chảy. Trí nàng sắc lại khi ước lạnh đập vào mặt, nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối kéo đến che lấp cả.

     Bỗng nàng mơ màng nghe thấy tiếng nhiều người, tiếng gọi tên nàng, một làn nước nóng đi vào cổ. Dung ú ớ cựa mình muốn trả lời.

     - Tỉnh rồi, tỉnh rồi, không lo sợ gì nữa. Bây giờ chỉ đắp chăn cho ấm rồi sắc nước gừng đặc cho uống là khỏi.

     Dung dần dần nhớ lại. Khi nàng mở mắt nhìn, thấy mình nằm trong buồng, người u già cầm cây đèn con đứng đầu giường nhìn nàng mỉm cười một cách buồn rầu:

     - Cô đã tỉnh hẳn chưa?

     Dung gật:

     - Tỉnh rồi.

     Một lát, nàng lại hỏi:

     - Tôi làm sao thế nhỉ... Bà cả đâu u? Bà ấy về chưa?

     U già để tay lên trán Dung, không trả lời câu hỏi:

     - Cô hãy còn mệt. Ngủ đi.

     Hai hôm sau, Dung mạnh khỏe hẳn. Bà mẹ chồng vẫn chờ nàng, hỏi có vẻ gay gắt thêm:

     - Cô định tự tử để gieo cái tiếng xấu cho tôi à? Nhưng đời nào, trời có mắt chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? Định ở hay định về?

     Dung buồn bã trả lời:

     - Con xin về.

     Khi theo bà ra ga, Dung thấy người hai bên đường nhìn nàng bàn tán thì thào. Nàng biết người ta tò mò chú ý đến nàng.

     Trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa.

     Dung thấy một cảm giác chán nản và lạnh lẽo. Khi bà cả lần ruột tượng gọi nàng lại đưa tiền lấy vé, Dung phải vội quay mặt đi để giấu mấy giọt nước mắt.

(Thạch Lam)

Chú thích: Hạ lưu: Tầng lớp thấp kém trong xã hội. Cha Dung gọi thế là vì ông có xuất thân là con cháu nhà quan. Khi ông cụ cố mất đi, cơ nghiệp ăn tiêu dần, cảnh nhà ông cũng dần trở nên sa sút, chỉ còn cái danh không.

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản trên.

Câu 2. Đề tài của văn bản này là gì? 

Câu 3. Nhận xét về sự kết nối giữa lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản.

Câu 4. Em hiểu như thế nào về đoạn trích: Trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa.?

Câu 5. Qua văn bản, tác giả gửi gắm tư tưởng, tình cảm nào đối với số phận đáng thương của nhân vật Dung?

 
0
(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:  Hai lần chết      Dung là con thứ bốn. Vì vậy khi nàng ra đời, không được cha mẹ hoan nghênh lắm. Thực ra, không phải cha mẹ nàng hất hủi con, vẫn coi người con như một cái phúc trời ban cho, nhưng lúc bấy giờ cha mẹ nàng đã nghèo rồi. Với ba người con trước, hai trai, một gái, cha mẹ Dung đã thấy khó nhọc, vất vả làm lụng mới lo đàn con...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

Hai lần chết

     Dung là con thứ bốn. Vì vậy khi nàng ra đời, không được cha mẹ hoan nghênh lắm. Thực ra, không phải cha mẹ nàng hất hủi con, vẫn coi người con như một cái phúc trời ban cho, nhưng lúc bấy giờ cha mẹ nàng đã nghèo rồi. Với ba người con trước, hai trai, một gái, cha mẹ Dung đã thấy khó nhọc, vất vả làm lụng mới lo đàn con đủ ăn, và hai con trai được đi học. Sau Dung lại còn con bé út nữa, nên cảnh nhà càng thêm túng bấn.

     […] Cha mẹ Dung cũng không nghĩ đến sự bắt nàng đi học như anh chị nàng, có lẽ vì nghĩ rằng lo cho hai người cũng đã đủ.

     Dung càng lớn càng gầy gò đi. Suốt ngày nàng chỉ chạy đánh khăng đánh đáo với lũ trẻ con nhà "hạ lưu"(1) cha nàng gọi thế những người nghèo khổ trú ngụ ở chung quanh xóm chợ. Nhiều khi đi đâu về trông thấy, cha nàng gọi về, đánh cho mấy roi mây và cấm từ đấy không được chơi với lũ trẻ ấy. Những trận đòn xong, Dung lại mon men chơi với lũ trẻ, và thấy hình như cha nàng cũng chỉ cấm lấy lệ chứ không thiết gì đến, nàng lại vững tâm nhập vào bọn hạ lưu đó, suốt ngày dông dài ở ngoài chợ.

     Một đôi khi, mẹ nàng kịp về đến nhà trông thấy nàng quần áo lôi thôi lếch thếch và chân tay lấm, bùn, chỉ chép miệng thở dài nói:

     - Con này rồi sau đến hỏng mất thôi.

     Rồi bà lại quay đi buôn bán như thường, sau khi đã để lại cho chồng một món tiền tiêu pha trong nhà, và sau khi anh chị Dung mỗi người đã nũng nịu đòi được một hào để ăn quà.

     Dung thấy thế cũng chẳng ganh tị, vì nàng xưa nay đối với các anh chị cũng không thân thiết lắm. Những khi nàng đang chơi thấy đói, nàng lại chạy về xin u già bát cơm nguội hay thức ăn gì khác thế nào u già cũng đã để phần rồi chạy nhảy như một con vật non không biết lo nghĩ gì.

     Những sự ấy đã làm cho Dung có một cái tính an phận và nhẫn nại lạ lùng. Ngày trong nhà có tết nhất, các anh chị và em nàng được mặc quần áo mới vui chơi, còn nàng vẫn cứ phải áo cũ làm lụng dưới bếp, Dung cũng không ca thán hay kêu ca gì. Mà nàng biết kêu ca cũng không được. Nhiều lần nàng đã nghe thấy u già nói mẹ nàng may cho cái áo, thì mẹ nàng trả lời:

     - May cho con nặc nô ấy làm gì. Để nó làm rách nát ra à?

     Còn nói với cha thì Dung biết là vô công hiệu, vì cha nàng không dám tự ý làm cái gì bao giờ cả.

     […] Thế là Dung đi lấy chồng.

     Nàng đi lấy chồng cũng bỡ ngỡ và lạ lùng như người nhà quê lên tỉnh. Dung coi đi lấy chồng như một dịp đi chơi xa, một dịp rời bỏ được cái gia đình lạnh lẽo và cái xóm chợ quen mắt quá của nàng. Đi lấy chồng đối với nàng là hưởng một sự mới.

     Vì thế, khi bước chân lên ô tô về nhà chồng, Dung không buồn bã khóc lóc gì cả. Nàng còn chú ý đến những sự lạ mắt lạ tai của nhà giai, không nghe thấy những lời chúc hơi mát mẻ và ganh tị của hai chị và em bé nàng nữa.

     Về đến nhà chồng, Dung mới biết chồng là một anh học trò lớp nhì, vừa lẫn thẩn vừa ngu đần. Nàng đã bé mà chồng nàng lại còn bé choắt hơn. Nhưng bà mẹ chồng với các em chồng nàng thì to lớn ác nghiệt lắm.

     Qua ngày nhị hỉ, Dung đã tháo bỏ đôi vòng trả mẹ chồng, ăn mặc nâu sồng như khi còn ở nhà, rồi theo các em chồng ra đồng làm ruộng. Nhà chồng nàng giàu, nhưng bà mẹ chồng rất keo kiệt, không chịu nuôi người làm mà bắt con dâu làm.

     Khốn nạn cho Dung từ bé đến nay không phải làm công việc gì nặng nhọc, bây giờ phải tát nước, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt ngày. Đã thế lại không có người an ủi. Chồng nàng thì cả ngày thả diều, chả biết cái gì mà cũng không dám cãi lại bà cụ. Còn hai em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị mắng thêm.

     Những lúc Dung cực nhọc quá, ngồi khóc thì bà mẹ chồng lại đay nghiến:

     - Làm đi chứ, đừng ngồi đấy mà sụt sịt đi cô. Nhà tôi không có người ăn chơi, không có người cả ngày ôm lấy chồng đâu.

     Rồi bà kể thêm:

     - Bây giờ là người nhà tao rồi thì phải làm. Mấy trăm bạc dẫn cưới, chứ tao có lấy không đâu.

     Dung chỉ khóc, không dám nói gì. Nàng đã viết ba bốn lá thư về kể nỗi khổ sở của nàng, nhưng không thấy cha mẹ ở nhà trả lời.

     Một hôm tình cờ cả nhà đi vắng, Dung vội ăn cắp mấy đồng bạc trinh lẻn ra ga lấy vé tàu về quê. Đến nơi, mẹ nàng ngạc nhiên hỏi:

     - Kìa, con về bao giờ thế? Đi có một mình thôi à?

     Dung sợ hãi không dám nói rằng trốn về, phải tìm cớ nói dối. Nhưng đến chiều tối, nàng lo sợ quá, biết rằng thế nào ngày mai mẹ chồng nàng cũng xuống tìm. Nàng đánh bạo kể hết tình đầu cho cha mẹ nghe, những nỗi hành hạ nàng phải chịu, và xin cho phép nàng ở lại nhà.

     Cha nàng hút một điếu thuốc trong cái ống điếu khảm bạc, rồi trầm ngâm như nghĩ ngợi. Còn mẹ nàng thì đùng đùng nổi giận mắng lấy mắng để:

     - Lấy chồng mà còn đòi ở nhà. Sao cô ngu thế. Cô phải biết cô làm ăn thế đã thấm vào đâu mà phải kể. Ngày trước tôi về nhà này còn khó nhọc bằng mười chứ chả được như cô bây giờ đâu, cô ạ.

     Sớm mai, bà mẹ chồng Dung xuống. Vừa thấy thông gia, bà đã nói mát:

     - Nhà tôi không có phúc nuôi nổi dâu ấy. Thôi thì con bà lại xin trả bà chứ không dám giữ.

     Mẹ Dung cãi lại:

     - Ô hay, sao bà ăn nói lạ. Bây giờ nó đã là dâu con bà, tôi không biết đến. Mặc bà muốn xử thế nào thì xử. Chỉ biết nó không phải là con tôi nữa mà thôi.

     Bà nọ nhường bà kia, rút cục Dung được lệnh của mẹ phải sửa soạn để đi với mẹ chồng.

     Bị khổ quá, nàng không khóc được nữa. Nàng không còn hy vọng gì ở nhà cha mẹ nữa. Nghĩ đến những lời đay nghiến, những nỗi hành hạ nàng phải sẽ chịu, Dung thấy lạnh người đi như bị sốt. Nàng hoa mắt lên, đầu óc rối bời, Dung ước ao cái chết như một sự thoát nợ.

     Nàng không nhớ rõ gì. Ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết. Như trong một giấc mơ, Dung lờ mờ thấy cái thành cầu, thấy dòng nước chảy. Trí nàng sắc lại khi ước lạnh đập vào mặt, nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối kéo đến che lấp cả.

     Bỗng nàng mơ màng nghe thấy tiếng nhiều người, tiếng gọi tên nàng, một làn nước nóng đi vào cổ. Dung ú ớ cựa mình muốn trả lời.

     - Tỉnh rồi, tỉnh rồi, không lo sợ gì nữa. Bây giờ chỉ đắp chăn cho ấm rồi sắc nước gừng đặc cho uống là khỏi.

     Dung dần dần nhớ lại. Khi nàng mở mắt nhìn, thấy mình nằm trong buồng, người u già cầm cây đèn con đứng đầu giường nhìn nàng mỉm cười một cách buồn rầu:

     - Cô đã tỉnh hẳn chưa?

     Dung gật:

     - Tỉnh rồi.

     Một lát, nàng lại hỏi:

     - Tôi làm sao thế nhỉ... Bà cả đâu u? Bà ấy về chưa?

     U già để tay lên trán Dung, không trả lời câu hỏi:

     - Cô hãy còn mệt. Ngủ đi.

     Hai hôm sau, Dung mạnh khỏe hẳn. Bà mẹ chồng vẫn chờ nàng, hỏi có vẻ gay gắt thêm:

     - Cô định tự tử để gieo cái tiếng xấu cho tôi à? Nhưng đời nào, trời có mắt chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? Định ở hay định về?

     Dung buồn bã trả lời:

     - Con xin về.

     Khi theo bà ra ga, Dung thấy người hai bên đường nhìn nàng bàn tán thì thào. Nàng biết người ta tò mò chú ý đến nàng.

     Trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa.

     Dung thấy một cảm giác chán nản và lạnh lẽo. Khi bà cả lần ruột tượng gọi nàng lại đưa tiền lấy vé, Dung phải vội quay mặt đi để giấu mấy giọt nước mắt.

(Thạch Lam)

Chú thích: Hạ lưu: Tầng lớp thấp kém trong xã hội. Cha Dung gọi thế là vì ông có xuất thân là con cháu nhà quan. Khi ông cụ cố mất đi, cơ nghiệp ăn tiêu dần, cảnh nhà ông cũng dần trở nên sa sút, chỉ còn cái danh không.

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản trên.

Câu 2. Đề tài của văn bản này là gì? 

Câu 3. Nhận xét về sự kết nối giữa lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản.

Câu 4. Em hiểu như thế nào về đoạn trích: Trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa.?

Câu 5. Qua văn bản, tác giả gửi gắm tư tưởng, tình cảm nào đối với số phận đáng thương của nhân vật Dung?

0
Câu đố 2: Bà đó bả chết bả bay lên trời. Hỏi bà ấy chết năm bao nhiêu tuổi và tại sao bà ấy chết? ĐÁP ÁN Câu đố 3: Con gì ăn lửa với nước than? ĐÁP ÁN Câu đố 4: Con kiến bò lên tai con voi nói gì với con voi mà ngay tức khắc con voi nằm lăn ra chết! ĐÁP ÁN Câu đố 5: Có 1 chiếc thuyền tối đa là chỉ chở được hai người, nếu thêm người thứ 3 sẽ bị chìm ngay lập tức. Hỏi tại...
Đọc tiếp

Câu đố 2: Bà đó bả chết bả bay lên trời. Hỏi bà ấy chết năm bao nhiêu tuổi và tại sao bà ấy chết? ĐÁP ÁN Câu đố 3: Con gì ăn lửa với nước than? ĐÁP ÁN Câu đố 4: Con kiến bò lên tai con voi nói gì với con voi mà ngay tức khắc con voi nằm lăn ra chết! ĐÁP ÁN Câu đố 5: Có 1 chiếc thuyền tối đa là chỉ chở được hai người, nếu thêm người thứ 3 sẽ bị chìm ngay lập tức. Hỏi tại sao người ta trông thấy trên chiếc thuyền đó có ba thằng mỹ đen và ba thằng mỹ trắng ngồi trên chiếc thuyền đó mà ko bị chìm? ĐÁP ÁN Câu đố 6: Con gấu trúc ao ước gì mà không bao giờ được? ĐÁP ÁN Câu đố 7: Tay cầm cục thịt nắn nắn, tay vỗ mông là đang làm gì? ĐÁP ÁN Câu đố 8: Cái gì bằng cái vung, vùng xuống ao. Đào chẳng thấy, lấy chẳng được? ĐÁP ÁN Câu đố 9: Con trai và đàn ong có điểm gì khác nhau? ĐÁP ÁN Câu đố 10: Có 1 đàn chim đậu trên cành, người thợ săn bắn cái rằm. Hỏi chết mấy con? ĐÁP ÁN

0
18 tháng 2

cảm nhận về bài thơ Xuân yến của đỗ cận

5 tháng 1

Nhiều vậy cô.

5 tháng 1

Olm chào em, hiện tại 1 coin = 10 xu em nhé

5 tháng 1

## Quản lý cảm xúc: Thử thách và cơ hội của giới trẻ hiện đại Thời đại số hoá bùng nổ, cùng với những biến động xã hội phức tạp đã đặt ra cho giới trẻ nhiều thách thức mới mẻ, trong đó, việc quản lý cảm xúc nổi lên như một vấn đề cấp thiết. Khả năng kiểm soát cảm xúc không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ tinh thần cá nhân ## Quản lý cảm xúc: Thử thách và cơ hội của giới trẻ hiện đại Thời đại số hoá bùng nổ, cùng với những biến động xã hội phức tạp đã đặt ra cho giới trẻ nhiều thách thức mới mẻ, trong đó, việc quản lý cảm xúc nổi lên như một vấn đề cấp thiết. Khả năng kiểm soát cảm xúc không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ tinh thần cá nhân mà còn tác động sâu sắc đến các mối quan hệ xã hội, thành công trong học tập và công việc của thế hệ trẻ. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc khó khăn trong quản lý cảm xúc của giới trẻ là áp lực xã hội ngày càng gia tăng. Cuộc sống hiện đại đòi hỏi sự cạnh tranh khốc liệt, từ thành tích học tập, hoạt động ngoại khoá cho đến việc xây dựng hình ảnh cá nhân trên mạng xã hội. Áp lực này dễ dẫn đến căng thẳng, lo âu, trầm cảm, đặc biệt là khi các bạn trẻ chưa có kỹ năng đối mặt và giải quyết vấn đề hiệu quả. Sự so sánh bản thân với người khác, đặc biệt trên nền tảng mạng xã hội, càng làm trầm trọng thêm tình trạng này. Hình ảnh hoàn hảo được dàn dựng công phu trên mạng xã hội tạo nên một chuẩn mực không thực tế, khiến nhiều bạn trẻ cảm thấy tự ti, bất an và dễ bị tổn thương khi không đạt được. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, dù mang lại nhiều tiện ích, cũng tiềm ẩn những tác động tiêu cực đến cảm xúc. Việc tiếp xúc quá nhiều với thông tin tiêu cực, bạo lực trên mạng xã hội, cùng với sự lan truyền nhanh chóng của tin giả, dễ gây ra hoang mang, lo lắng và ảnh hưởng đến tâm lý ổn định. Hơn nữa, sự cô lập xã hội, lệ thuộc vào mạng internet cũng làm giảm khả năng giao tiếp, tương tác trực tiếp, khiến cho việc thể hiện và giải quyết cảm xúc trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên, vấn đề quản lý cảm xúc không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để giới trẻ phát triển toàn diện. Việc trang bị những kỹ năng quản lý cảm xúc hiệu quả sẽ giúp các bạn trẻ trở nên tự tin, kiên cường và thành công hơn trong cuộc sống. Học cách nhận biết, chấp nhận và điều chỉnh cảm xúc là bước đầu tiên quan trọng. Các phương pháp như thiền định, yoga, tập thể dục thể thao, hay đơn giản là dành thời gian cho sở thích cá nhân, đều góp phần tích cực vào việc cân bằng cảm xúc. Hơn nữa, việc tìm kiếm sự hỗ trợ từ gia đình, bạn bè, thầy cô, hay chuyên gia tâm lý cũng vô cùng cần thiết. Nhà trường và gia đình cần có vai trò quan trọng trong việc giáo dục và hỗ trợ giới trẻ phát triển kỹ năng này. Chương trình giáo dục cần tích hợp các bài học về quản lý cảm xúc, kỹ năng sống vào trong chương trình học. Gia đình cần tạo ra môi trường yêu thương, tôn trọng, lắng nghe và chia sẻ, giúp các bạn trẻ tự tin thể hiện cảm xúc của mình. Tóm lại, việc quản lý cảm xúc là một kỹ năng sống thiết yếu đối với giới trẻ trong thời đại hiện nay. Chỉ khi trang bị được kỹ năng này, các bạn trẻ mới có thể vượt qua những thách thức, tận dụng cơ hội và sống một cuộc sống hạnh phúc, trọn vẹn. Việc giáo dục và hỗ trợ từ gia đình, nhà trường và xã hội là điều cần thiết để giúp thế hệ trẻ phát triển toàn diện và khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần.

5 tháng 1

Quản lý cảm xúc - một kỹ năng sống thiết yếu, đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết đối với giới trẻ hiện nay. Trong xã hội phát triển nhanh chóng với áp lực học tập, thi cử, công việc và mạng xã hội khổng lồ, những biến động cảm xúc trở nên thường xuyên và mạnh mẽ hơn. Nhiều bạn trẻ dễ bị cuốn vào trạng thái tiêu cực như stress, lo âu, trầm cảm, thậm chí dẫn đến hành động nông nổi, thiếu kiểm soát. Nguyên nhân một phần đến từ sự thiếu định hướng, thiếu kỹ năng giải quyết vấn đề, và sự thiếu thốn sự đồng cảm, chia sẻ từ gia đình và xã hội. Tuy nhiên, việc quản lý cảm xúc không phải là kìm nén hay phủ nhận cảm xúc tiêu cực. Nó là về việc nhận biết, hiểu rõ, và xử lý cảm xúc một cách lành mạnh. Học cách thư giãn, tập thể dục, tìm đến sở thích cá nhân, chia sẻ với người thân, bạn bè, hay tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp là những cách hiệu quả. Nhà trường và gia đình có vai trò quan trọng trong việc trang bị kỹ năng này cho giới trẻ, thông qua giáo dục cảm xúc, tạo môi trường thân thiện, khuyến khích sự tự tin và khả năng thích ứng. Tóm lại, quản lý cảm xúc là chìa khóa cho sự phát triển toàn diện của giới trẻ. Việc đầu tư vào giáo dục cảm xúc, tạo môi trường sống tích cực và hỗ trợ kịp thời sẽ giúp các bạn trẻ vượt qua khó khăn, sống lạc quan và hạnh phúc hơn.

1 tháng 1

Trong kho tàng văn học cổ điển Việt Nam, "Nỗi nhớ thương của người chinh phụ" là một tác phẩm nổi bật, phản ánh sâu sắc những cảm xúc, tâm tư của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác phẩm thể hiện một nỗi nhớ khắc khoải, một tình yêu sâu đậm và một nỗi cô đơn tột cùng của người vợ khi chồng ra trận, để lại trong lòng người đọc những suy tư về tình yêu, sự hy sinh và những khổ đau trong cuộc sống. Bài thơ "Nỗi nhớ thương của người chinh phụ" đã khắc họa rõ nét hình ảnh một người phụ nữ trong cảnh chồng đi chinh chiến. Từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những cảnh vật trống vắng, lạnh lẽo, phản ánh nỗi nhớ nhung da diết của người vợ khi phải xa chồng. Tâm trạng của người phụ nữ trong bài thơ là sự đau đớn, cô đơn, và nỗi lo lắng không nguôi về người chồng đang nơi chiến trường. Những câu thơ như "Chinh phụ xuân bạch", "Lòng nhớ thương chồng", đã làm nổi bật sự bồn chồn, lo lắng của người phụ nữ trong bối cảnh chiến tranh và nỗi sợ hãi trước sự mất mát. Đồng thời, tác phẩm cũng là một bản cáo trạng lên án chiến tranh, những đau khổ mà chiến tranh mang lại cho con người, đặc biệt là cho những người phụ nữ. Chiến tranh không chỉ gây ra những mất mát về mặt vật chất mà còn là cuộc tàn phá về tinh thần, tình cảm của con người. Người phụ nữ trong tác phẩm không chỉ nhớ thương chồng mà còn cảm thấy bất lực, không thể làm gì ngoài việc chờ đợi và lo lắng. Đây là nỗi đau không chỉ về thể xác mà còn là nỗi đau về tinh thần của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, khi họ phải sống trong cảnh cô đơn, thiếu thốn tình cảm. Tuy nhiên, giữa nỗi đau đớn ấy, cũng có một sự kiên cường, một niềm tin vào tình yêu và sự trở về của người chồng. Tình yêu của người vợ dành cho chồng là bất diệt, vượt qua mọi gian khó, thử thách. Điều này thể hiện ở những câu thơ như "Chân trời mây trắng", khẳng định rằng dù cho có xa cách, dù cho có chờ đợi bao lâu thì tình yêu đó vẫn không thay đổi. Như vậy, qua "Nỗi nhớ thương của người chinh phụ", tác giả không chỉ vẽ lên bức tranh sinh động về tình yêu và nỗi nhớ của người vợ mà còn phản ánh một phần nỗi đau, sự hi sinh của những người phụ nữ trong chiến tranh, trong xã hội phong kiến. Tác phẩm không chỉ là lời bày tỏ nỗi niềm của một con người mà còn là lời nhắc nhở về giá trị của hòa bình, sự tôn trọng và yêu thương trong mỗi gia đình, trong mỗi con người. Thông qua đó, chúng ta càng thấy được vai trò quan trọng của tình yêu, lòng trung thủy và sự hy sinh trong cuộc sống.

Chúc bạn học tốt !