K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

            Đoạn thơ đã sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian trong đó có văn học dân gian. Từ các truyền thuyết vào loại xa xư­a nhất của dân tộc ta như­ Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng V­ơng đến truyện cổ tích, nh­ Trầu Cau, đặc biệt là nhiều câu ca dao, dân ca, của nhiều miền đất nư­ớc:

Ví dụ: “Cha mẹ th­ương nhau bằng gừng cay muối mặn” Là từ câu ca dao:

                                   Tay bư­ng chén muối đĩa gừng

                                   Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

             “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” gợi nhớ đến câu ca dao:

                                   “Yêu em từ thuở trong nôi

                                    Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”

“Biết quí trọng công cầm vàng những ngày lặn lội” là đư­ợc rút từ câu ca dao:

                                    Cầm vàng mà lội qua sông

                                     Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng.

             Chất liệu văn học dân gian đã đ­ược tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh hoạt và sáng tạo. Không lặp lại hoàn toàn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ th­ờng chỉ dùng một hình ảnh hoặc một phần của các câu ca đó để đ­a vào tạo nên câu thơ của mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích cũng đư­ợc sử dụng theo cách gợi nhắc tới bằng một hình ảnh hoặc tên gọi. Tác giả vừa đ­a ngư­ời đọc nhập cả vào môi tr­ường văn hóa, văn học dân gian đồng thời lại thể hiện đ­ược sự đánh giá, cảm nhận đ­ược phát hiện của tác giả về kho tàng văn hoá tinh thần ấy của dân tộc.

 

Đề thi đánh giá năng lực

3 tháng 3 2016

         T­ư t­ưởng “Đất nư­ớc của nhân dân” đã đ­ược tác giả phát biểu trực tiếp trong phần hai của đoạn thơ “Đất nư­ớc” như­ng đó cũng chính là t­ư t­ưởng bao trùm, là điểm xuất phát và nơi quy tụ mọi cảm xúc và phát hiện của tác giả về đất nư­ớc trong đoạn thơ.

         Đất nư­ớc đ­ược cảm nhận trong chiều rộng của không gian, trong vẻ đẹp và sự phong phú của núi sông với những thắng cảnh kì thú. Nh­ưng điều quan trọng là tác giả đã phát hiện ra sự gắn bó sâu xa, mật thiết của thiên nhiên đất nư­ớc với cuộc sống và số phận của nhân dân, của vô vàn những con ngư­ời bình dị:

                               Những ngư­ời vợ nhớ chồng góp cho đất n­ước những núi Vọng phu

                               Cặp  vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống mái...

                               Ngư­ời học trò nghèo góp cho đất nư­ớc mình núi  Bút non Nghiên.

        Nhìn vào thiên nhiên đất n­ước, nhà thơ đã “đọc” đ­ược tâm hồn, những ­ước vọng và sự gửi gắm của bao thế hệ con ng­ười. Từ đó tác giả cảm nhận đ­ược một chân lí hiển nhiên và sâu xa:

                             Ôi đất n­ước, sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,

                             Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

         Khi nói về lịch sử bốn nghìn năm dựng nư­ớc và giữ nư­ớc của dân tộc tác giả không nêu các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà mọi ng­ười đều nhớ, mà tr­ước hết nhắc đến vô vàn những con ngư­ời bình th­ờng, vô danh, những ng­ười “không ai nhớ mặt đặt tên, họ đã sống và chết, giản dị, bình tâm. Nh­ng chính họ đã làm ra đất n­ước”.

          Đất nư­ớc còn đư­ợc cảm nhận trong chiều sâu của văn hóa, lối sống, phong tục, của tâm hồn và tính cách dân tộc. Để nói về những ph­ơng diện đó, Nguyễn Khoa Điềm cũng lại tìm về với nguồn phong phú của văn hóa dân gian. Nhân dân không chỉ là ngư­ời sáng tạo lịch sử, tạo dựng nên các giá trị vật chất mà còn là ng­ười sáng tạo và l­ưu truyền các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc. Họ đã “truyền lửa qua mỗi ngôi nhà, truyền giọng điệu mình cho con tập nói”. Còn vẻ đẹp tâm hồn dân tộc đã đư­ợc kết đọng trong kho tàng phong phú, mĩ lệ của ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết và cổ tích. Bởi vậy Nguyễn Khoa Điềm đã rất có lí khi nêu một định nghĩa “Đất n­ước của ca dao thần thoại” tiếp liền sau mệnh đề “Đất n­ước của nhân dân”.

3 tháng 3 2016

         Trong phần đầu của đoạn thơ, tác giả đã cảm nhận về đất nư­ớc một cách trọn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện: thời gian lịch sử và không gian địa lý, huyền thoại, truyền thuyết và đời sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia đình. Đất n­ước đ­ược cảm nhận vừa thiêng liêng, sâu xa lại vừa gần gũi thân thiết. Những dòng thơ ở cuối phần là một sự cảm nhận sâu sắc và phát hiện mới mẻ của tác giả về đất n­ước trong sự sống, tình yêu, trong vận mệnh và trách nhiệm của mỗi cá nhân.

                             Trong anh và em hôm nay

                               Đều có một phần đất nư­ớc.

           Đất nư­ớc không chỉ là núi sông, rừng, biển, không chỉ là lịch sử dựng nư­ớc và giữ nư­ớc mà Đất nư­ớc còn đư­ợc kết tinh và tồn tại trong sự sống của mỗi cá nhân, mỗi chúng ta hôm nay. Quả vậy, sự sinh thành của mỗi cá nhân đều có cội nguồn sâu xa từ dân tộc và đ­ợc thừa h­ưởng thành quả vật chất và tinh thần do bao thế hệ tạo dựng lên. Như­ng sự sống của mỗi cá nhân chỉ có thể tồn tại và có ý nghĩa trong sự hài hòa với những cá nhân khác và toàn thể cộng đồng:  Khi hai đứa cầm tay …..  Đất n­ước vẹn toàn to lớn.   

           Đất n­ước đư­ợc trư­ờng tồn qua sự tiếp nối của các thế hệ và các thế hệ mai sau sẽ đư­a đất nư­ớc tới sự phát triển xa hơn, đến “Những tháng ngày mơ mộng”.

            Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện một chân lí giản dị mà sâu sắc về đất nư­ớc. Đất n­ước không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, trong sự sống mỗi ng­ười. Đất nư­ớc trở nên hết sức thiêng liêng mà gần gũi với mỗi ngư­ời. Chân lí ấy một lần nữa được tác giả nhắc lại nh­ư lời nhắn nhủ tha thiết “Em ơi em, đất nư­ớc là máu x­ương của mình”. Từ đó dẫn đến lời nhắc nhở về trách nhiệm thiêng liêng của mỗi ngư­ời với đất nư­ớc.

                              “Phải biết gắn bó và san sẻ

                               Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

                               Làm nên đất nư­ớc muôn đời”.

 

25 tháng 2 2016

Soạn bài thuốc của Lỗ Tấn Câu 1.  a. Mua bánh: Buổi sáng mùa thu, lão Hoa Thuyên cầm nắm bạc dành dụm đi mua thuốc. • Ngã ba Cổ… Đình Khẩu: không gian pháp trường, thời gian trước bình minh – khoảng năm giờ sáng. Những chi tiết được miêu tả: - Trời còn tối và lạnh. Mọi người còn ngủ say! - Những người đi trên đường ánh mắt cú vọ ngời lên như người đói lâu ngày. - Bao nhiêu người kì dị, đi lại như bóng ma. - Tiếng bước chân, tiếng xô đẩy ào ào vì nhiều người tranh mua bánh. - > Khung cảnh âm thầm ma quái rung rợn, giống như chuẩn bị ăn thịt người. - Một người quần áo đen ngòm, mắt sắc như lưỡi dao -> hình ảnh đao phủ quái đản, có dáng dấp thần chết. - Tay hắn cầm chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt. Lão Hoa Thuyên sợ, không dám cầm -> tên đao phủ trao chiếc bánh là trao cái chết nhưng lão Hoa Thuyên nhận nó đầy mừng rỡ và hi vọng. - > Cách xử tử và cảnh người đi mua bánh là một không gian mê muội thứ nhất. - Cuối cùng cũng mua được bánh - > lão Hoa Thuyên sung sướng tin tưởng. a. Ăn bánh - Bánh nướng lên trong quán trà với mùa thơm quái đản. - Hoa Thuyên ăn bánh theo quán tính. - > Hoa Thuyên là bệnh nhân sinh lí. - > Ông bà Hoa Thuyên thương con, nhưng quá mê muội. Họ đang bị bệnh tinh thần, u mê về khoa học, bệnh mê tín dị đoạn. Căn bệnh thâm canh cố đế, kết đọng từ sự ngu muội truyền kiếp. Sơ kết: cả gia đình đang bị bệnh. Họ đang ăn thịt, uống máu đồng loại mà không biết nên vừa đáng tôi, vừa đáng thương. b. Bánh bao tẩm máu Hạ Du – người bị hành hình lúc tờ mờ sáng. Hạ Du là ai? Câu 2. Hình tượng Hạ Du. - Khi ngồi tù, Hạ Du kiên trì tuyên truyền: thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta - > Đây là người chiến sĩ cách mạng có lập trường kiên định, lí tưởng chiến đấu rõ ràng, vì nhân dân Trung Hoa nghèo khổ. Tâm hồn chiến sĩ ấy thật cao cả. - Ra pháp trường, Hạ Du bị biến thành trò “thị chúng” tầm thường vô nghĩa, sự hi sinh cao thưởng của Hạ Du bị biến thành trò cười, để nhiều người hưởng lợi. Thật đau xót và mỉa mai. - Dư luận của quần chúng trước cái chết của Hạ Du: + Là tên tội phạm không biết con nhà ai. + Thằng quỷ sứ, thằng nhãi con, thằng khốn nạn, thằng giặc. + Thằng điên (phép điệp có ý nghĩa nhấn mạnh) - > Dân chúng ngơ ngác, không ai hiểu Hạ Du, họ chỉ biết lí giải là Hạ Du điên. Họ cũng tin tưởng rằng, thằng Thuyên ăn bánh sẽ lành bệnh. Quán trà là không gian mê muội thứ hai. - Gia đình Hạ Du + Cụ Ba bán đứng đứa cháu, được hai mươi lạng bạc trắng xóa. Mọi người trong quán đề khen cụ Ba khôn. + Người mẹ thăm mộ con thì xấu hổ. - > Người thân trong nhà không ai hiểu Hạ Du. = > Bi kịch của Hạ Du (Hạ Du >< đại chúng) Hạ Du chiến đấu cho quần chúng nhưng quần chúng xem Hạ Du là giặc. Nhân dân đáng thương còn Hạ Du thì đáng trách. Hạ Du là người chiến sĩ cô đơn, một người giác ngộ sớm, là người hùng thức dậy trước bình minh. Anh trở thành hình tượng điên nên không ai thấu hiểu. Từ đó tác giả vạch ra căn bệnh mê muội không hiểu cách mạng của quần chúng, căn bệnh xa rời quần chúng của những người cách mạng như Hạ Du. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Hạ Du bằng bút pháp “hư tả” – nhân vật xuất hiện thông qua nhân vật khác. Câu 3. Quan hệ giữa cái chết và nội dung ý nghĩa toát ra từ nghệ thuật chơi chữ của nhà văn. - Hoa Thuyên chết vì bệnh nan y và sự lạc hậu về khoa học. - Hạ Du chết vì bệnh tinh thần mù quáng của nhân dân. - > Lời cảnh tỉnh về những căn bệnh của xã hội Trung Hoa đương thời. - Thuyên nghĩa là lành bệnh nhưng lại chết. - Du là ngọc đẹp, ngọc quý nhưng lại bị chôn vùi. - > Sự vô lí do đâu? Vì những căn bệnh mê muội trên. - Hoa Thuyền là Hoa lành - Hạ Du là Hạ Quý - > Những đứa con trai duy nhất của hai gia đình Hoa – Hạ, là tương là hi vọng của gia đình và đất nước Trung Hoa nhưng vì bệnh tật mà chỉ còn lại nấm mồ. Hoa – Hạ là tên gọi của đất nước Trung Hoa thời cổ (người Trung hoa tự hào mình là người Hoa Hạ) vậy thì hai cái chết ấy cho thấy Trung Hoa sẽ mất hết tương lai. Đó là lời cảnh tỉnh, một tiếng kêu cứu. Mùa thu có hai cái chết như hai hạt ngọc bị sự ngu muội chôn vùi để mùa đông cùng thao thức chuẩn bị cho một mùa xuân nối kết vòng hoa đồng cảm hiểu biết, để cùng hi vọng một tương lai cách mạng tươi sáng. Cách viết, nghệ thuật thể hiện ngắn gọn, hàm súc, trí tuệ sâu sắc. Câu 4. Cảnh viếng mộ của hai người mẹ vào mùa xuân năm sau. - Nghĩa địa ngoại thành phía Tây chi làm hai phần bởi con đường mòn nhỏ hẹp, cong queo. + Bên phải, chôn người chết đúng lẽ phải, có một Hoa Thuyên. + Bên trái, chôn người chết do sai trái, có mộ Hạ Du. - > So với mùa thu trước, xã hội Trung Quốc còn phẳng lặng chưa có thay đổi gì, quần chúng chưa biết làm cách mạng. - Mộ khít dày như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ, lại bánh bao, sẽ còn nhiều người chết vì bánh bao – nghĩa là vì ngu muội, để vun đắp cho hạnh phúc cho bọn nhà giàu (phép chiếu ứng nội tại trong nghệ thuật kết cấu của văn chương Trung Hoa). Bọn nhà giàu (như lão Nghĩa mắt cá chép) sẽ được hưởng lợi bởi sự ngu dốt của người nghèo. - Hình tượng con đường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của Lỗ Tấn. Nó trở thành hình tượng ẩn dụ thể hiện mối quan tâm đặc biệt của nhà văn về vận mệnh của quốc gia. Trong tác phẩm này, nó mang nhiều ý nghĩa. - > Con đường mòn tượng trưng cho tập quán xấu, nếp nghĩ cũ. Và đây là con đường đã cũ không thể đưa Trung Hoa đi đến tương lai. Do đó cần phá bỏ con đường, xóa bỏ ranh giới ngăn cách của lòng người. Trung Hoa cần phải tìm ra con đường mới. Lỗ Tấn nói: Đường là cái gì? Chính là chỗ chưa có đường đi mà ra, từ chỗ chỉ có gai góc mở ra. Nhà thơ Tây Ban Nha là An-tô-ni-ô Ma-ca-đô cũng nói: Đầu tiên nào có đường! Cứ đi sẽ thành đường. - Mẹ Hạ Du viếng mộ nhưng xấu hổ không dám bước, sau đánh liều bước tới nấm mộ bên trái - > Chứng tỏ bà chưa hiểu con. Nhưng khi nhìn thấy hoa trên mộ thì bà khóc than: Oan con lắm, Du ơi! - > Bà mẹ đã bắt đầu hiểu. - Mẹ Hoa Thuyên động lòng trắc ẩn đứng dậy, niềm đồng cảm của người mẹ mất con thúc đẩy bà bước qua bên kia đường mòn -> lòng người sẽ không còn cô đơn chia cắt, trong quần chúng đã bắt đầu có sự đồng cảm và nhận thức về thế giới xung quanh. - Cuối cùng là câu hỏi: Thế này là thế nào nhỉ? Hứa hẹn sẽ có câu trả lời, sẽ có sự giác ngộ trong quần chúng. - Vòng hoa trên mộ Hạ Du - > đã có người hiểu Hạ Du, đã có quần chúng được giác ngộ và tiếp bước theo con đường của Hạ Du, con đường cách mạng sẽ lạc quan. Vòng hoa cũng là tấm lòng tri ân kính cẩn của nhà văn đối với các liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc. Câu 5. Ý nghĩa nhan đề Thuốc - Nghĩa đen: Truyện đề câp đến món thuốc quái đản: bánh bao tẩm máu người để trị bệnh lao (cũng như tất cả các bệnh khác). - Nghĩa bóng: Qua việc sử dụng bài thuốc mê tín đó, Lỗ Tấn muốn vạch ra những căn bệnh tinh thần của Trung Quốc lúc bấy giờ, cần có phương pháp, bài thuốc chữa chạy: + Căn bệnh u mê về khoa học, bệnh mê tín dị đoan. + Căn bệnh mê muội về chính trị của quần chúng. + Căn bệnh xa rời quần chúng của những người làm cách mạng. Nhà cách mạng Tôn Trung Sơn nói: Xã hội Trung Quốc là con bệnh trầm trọng. Cần chữa trị nhưng phương thuốc ấy ở đâu? Trung Quốc đang đi tìm.

26 tháng 2 2016

banhbucquaNgữ văn lớp 12

25 tháng 2 2016

I/ Tìm hiểu chung:
1.Tác giả : Quang Dũng (1921-1988)
- Tên thật là Bùi Đình Diệm.
- Quê quán Phượng Trì, Đan Phương, Hà Tây.
- Cuộc đời: Từng gia nhập quân đội, làm thơ, viết văn, biên tập viên nhà xuất bản
- Con người : Là một nghệ sĩ đa tài “ Cầm, kì, thi, hoạ”, nhưng trước hết là một nhà thơ.
- Phong cách thơ: Hồn hậu, phóng khoáng, hào hoa, lãng mạn.
2. Bài thơ Tây Tiến:
a) Hoàn cảnh ra đời:
* Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách thơ QD, in trong tập thơ “Mây đầu ô”(1986).
b) Bố cục bài thơ
+ Đoạn 1: Nhớ về những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây.
+ Đoạn 2: Nhớ những kỉ niệm đẹp (Đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng)
+ Đoạn 3: Nhớ về những người đồng đội Tây Tiến.
+ Đoạn 4:Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
II/ Đọc hiểu bài thơ:
1. Đoạn 1 : Nỗi nhớ về những chặng đường hành quân của bộ đội Tây Tiến và khung cảnh núi rừng miền Tây.
- Hai câu thơ mở đầu:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi...”
=> Hình ảnh “Sông Mã” như gợi thức nỗi nhớ ùa về trong tâm hồn nhà thơ.
=> Nhớ “Chơi vơi” ( 2 thanh bằng, nhẹ, lan toả, không hình không khối.
Hồn thơ Quang Dũng như đang bơi trong một biển nhớ bát ngát mênh mông, không bờ, không bến, tràn ngập, chơi vơi...Câu thơ như khơi dòng cho nguồn thác kí ức hiện về.
- Bức tranh thiên nhiên miền Tây Vừa hùng vĩ, hiểm trở , hoang vu, nghiệt ngã vừa độc đáo thú vị:
+ Hùng vĩ, hiểm trở (Mở ra trong nhiều chiều không gian, thời gian)
> Nhiều tên đất lạ lẫm, gợi 1 vùng xa xôi, hẻo lánh: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu...
>Nhiều đèo dốc hiểm trở:
“ Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...”
=> Sử dụng từ láy giàu chất tạo hình, gợi tả, gợi cảm, những câu thơ toàn thanh trắc ...=> Một bức tranh hoành tráng với tất cả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây
+ Nhiều vẻ hoang dại, bí ẩn, khắc nghiêt: Với mưa rừng, “Sương lấp đoàn quân mỏi”, “Thác gầm thét”, “Cọp trêu người.”
- Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trong đoạn thơ :
+ Đó là những chiến sĩ anh hùng bất khuất không quản ngại vượt qua bao chặng đường gian khổ , bao nhiêu hi sinh mất mát lớn lao:
" Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời...”
=> Nổi bật chất bi tráng
+ Nhưng đó còn là những chàng trai hào hoa lãng mạn tinh nghịch với bao hăm hở khám phả, chinh phục.
- Hai câu kết đoạn thơ : “ Nhớ ôi...nếp xôi”=> Gợi không khí đầm ấm tình quân dân, như xua đi bao mệt mỏi của cuộc hành trình,tạo cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho đoạn sau
2. Đoạn 2: Nhớ về những kỉ niệm đẹp - một vùng kí ức mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình
+ Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ: Những chàng trai Tây Tiến cùng những cô gái miền Tây như hoà quyên trong một không gian lãng mạn với
> Đường nét uyển chuyển, man dại
> Không khí sôi nổi, tình tứ
> Âm thanh sắc màu hoà quyện ...
=>Cảnh vật và con người như hoà trong men say, tình tứ, ngây ngất, rạo rực.
+ Cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, mênh mang huyền ảo: “Người đi Châu Mộc...Hoa đong đưa”
> Không gian dòng sông trong một buổi chiều sương huyền ảo, thơ mộng vừa hoang dại như một bờ tiền sử-> Gợi sắc màu cổ tích huyền thoại.
> Nổi bật lên trên nền không gian ấy là dáng hình mềm mại uyển chuyển của cô gái miền Tây trên chiếc thuyền độc mộc.
=> Thiên nhiên hoang sơ nhưng vẫn rất gần gũi gợi bao cảm xúc sâu lắng.
3. Đoạn 3: Chân dung người lính Tây Tiến.
+ Chân dung : (Gương mặt chung của những người lính TT qua kí ức của QD)
- Ngoại hình : Toát lên vẻ oai phong, dữ dằn qua cái nhìn lãng mạn của QD
- Tâm hồn: lãng mạn, mơ mộng, khát khao yêu đương
+ Sự hi sinh mất mát:
-Từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, độc hành...-> Gợi âm hưởng cổ kính, trang trọng.
- Hình ảnh về sự hi sinh lặp lại ở khổ1, nhưng được nâng lên tầm khái quát mang tầm vóc sử thi, thần thoại
- Sự thật bi thảm được làm mờ bằng những câu thơ gợi hình ảnh những tráng sĩ ngày xưa ra đi vì nghĩa lớn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng
=> Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, toát lên vẻ đẹp hào hùng và hào hoa , đậm chất bi trángcủa người lính TT
4. Đoạn kết: Lời thề sắt son
- “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy ...”=>thời điểm mơ mộng hào hùng một đi không trở lại.
- Câu kết ” Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện tinh thần “ một đi không trở lại” => Gợi không khí một thời đại ra đi kháng chiến “thà chết chớ lui” của tuổi trẻ VN trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
III/ Chủ đề :
Qua bài thơ, tác giả Quang Dũng :
- Ca ngợi vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến chống Pháp.
- Thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người miền Tây một thời gắn bó

22 tháng 2 2016

Đề bài: Soạn bài ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
I.    Tìm hiểu chung
1.    Tác giả
a.    Cuộc đời

–    Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937
–    Ông sinh ra tại Huế vì thế ông gắn bó sâu sắc với Huế
–    Là người có hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực đặc biệt nhất là sử học, địa lý văn hóa ở Huế
b.    Sự nghiệp
–    Ông viết rất nhiều tác phẩm: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, rất nhiều ánh lửa, ai đã đặt tên cho dòng sông…
–    Phong cách nghệ thuật: Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm tài hoa
2.    Tác phẩm
a.    Hoàn cảnh sáng tác

–    Tác phẩm là bài kí xuất sắc của Hoàng Phủ ngọc Tường được viết tại Huế, vào ngày 4-1-1981, sau đó in trong tập sách cùng tên
b.    Bố cục: 3 phần
–    Đoạn trích nằm ở phần 1, và tóm tắt phần 2,3
–    Bố cục đoạn trích: 2 phần
•    Phần 1; từ đầu đến quê hương xử sở: thủy trình của sông Hương
•    Phần 2: còn lại: dòng sông của lịch sử thơ ca
II.    Phân tích
1.    Thủy trình của Hương Giang
a.    Sông Hương ở vùng thượng lưu

–    Sông Hương nằm vùng thượng lưu mang một vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt như bản trường ca của rừng già, hoang dại bí ẩn nhưng cũng có lúc dịu dàng đằm thắm
•    Sông Hương như bản trường ca của rừng già
•    Vẻ đẹp dịu dàng say đắm với những sắc màu rực rỡ
->    Nghệ thuật so sánh kết hợp với những câu văn dài, thủ pháp điệp cấu trúc kết hợp với động từ mạnh tạo nên âm hưởng mạnh mẽ
•    Vẻ hoang dại : sông  Hương giống như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại
•    Sông Hương như một bà mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở
->    Ngay từ đầu bài văn tác giả đã như khoe ra cái bút pháp tài hoa của mình.nhà văn tạo ra những liên tưởng lý thú xác đáng, ngôn từ gợi cảm. Tất cả tạo nên sự hấp dẫn về một con sông mang linh hồn của sự sống
b.    Sông hương ở ngoại vi thành phố Huế
–    Dưới ngòi bút của HPNT sông Hương như một cô gái đẹp nằm mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, nàng ngủ mơ màng mong người tình đến đánh thức
•    Với kiến thức địa lý tác giả đã miêu tả tỉ mỉ về sông Hương chuyển dòng một cách liên tục uốn mình với những đường cong thật mềm mại
•    Sông nước sông Hương thay đổi theo ngày: sớm xanh trưa vàng chiều tím
•    Hình dáng như tấm lụa mềm mại trên cơ thể người thiếu nữ
->    Sông Hương hiện lên nét trầm mặc cổ kính như triết lý cổ thi. Vận dụng kiến thức về văn hóa văn học tác giả đã tạo cho người đọc vẻ đẹp trầm mặc như triết lý cổ thi “Đi giữa sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sống hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế như nép mình bên giấc ngủ nghìn thu của vua chúa

soan bai ai da dat ten cho dong song cua hoang phu ngoc tuong

c.    Sông Hương chảy vào thành phố Huế
–    Cuối cùng sông Hương đã đến được với thành phố của mình, con sông mang một vẻ đẹp độc đáo
–    Sông Hương như một điệu slow tình cảm của Huế
–    Lưu tốc của con sông khác hẳn với dòng sông khác. Phải chăng vì quá yêu thành phố của mình, con sông Hương muốn nhìn ngắm thành phố của mình lâu hơn trước khi rời xa nó. Đó là tình cảm của dòng sông hương với Huế hay chính la tình cảm đăc biệt mà HPNT dành cho sông Hương và xứ huế
–    Sông Hương như người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya. Viết về sông Hương giữa lòng thành phố Huế tác giả không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng. ở góc độ âm nhạc tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn
–    Sông Hương được ví như người tình dịu dàng và thủy chung
2.    Dòng sông của lịch sử, thơ ca, cuộc đời
–    Lịch sử: sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc
–    Cuộc đời: sông Hương mang vẻ đẹp dịu dàng, giản dị của một cô gái
–    Thi ca: trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ nhà văn
3.    Nhan đề 
–    Bài kí kết thúc bằng cách lý giải về tên của dòng sông qua một câu hỏi đầy trăn trở. Nhà văn đã chọn một cách lý giải ấn tượng đầy chất trữ tình bằng một huyền thoại
–    Mượn huyền thoại này để giải thích câu hỏi của nhan đề. Qua đó nhà văn muốn khẳng định phẩm chất đẹp đẽ của sông Hương
III.    Tổng kết
–    Bài kí là kết tinh vẻ đẹp của dòng sông Hương, nó vừa mang vẻ mãnh liệt dữ dội lại vừa mang vẻ đàm thắm kiêu sa, mơ màng như một người con gái đẹp.
–    Nhà văn hấp dẫn người đọc bằng bút pháp tài hoa trữ tình của mình. có thể nói nhà văn đã tạo nên một trang văn đẹp về dòng sông Hương

22 tháng 2 2016

I.    Đọc hiểu chung
1.    Tác giả

–    Nguyễn tuân là một người tri thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
–    Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác tài hoa
–    Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng, ông không thích những cái gì bằng phẳng nhợt nhạt, nhà văn luôn hứng thú với những biểu hiện mạnh mẽ phi thường của tạo vật và con người
2.    Tác phẩm
–    Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tùy bút sông Đà (1960)
–    Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng
–    Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám
II.    Đọc hiểu chi tiết
1.    Hình tượng con sông Đà

–    Con sông Đà được nhân hóa như con người và mang hai nét tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình
–    Hung bạo:
•    Cảnh đá ở bờ sông: đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươi con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện
•    Mặt ghềnh Hát loong: dài hàng ngàn cây số, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy
•    Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy
•    Thác nước: tiếng nước gần mãi réo lên, lúc thì gầm réo oán trách van xin, khiêu khích, lúc thì nghe như đàn trâu mộng “…nổ lửa”  nghệ thuật lấy lửa tả nước
•    Đá ở lòng sông: như bày thạch trận
–    Thơ mộng: di hết thượng nguồn đến hạ nguồn ta bắt gặp cảnh đẹp này
•    Hình dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân”  đẹp như một người thiếu nữ
•    Màu nước sông Đà: thay đổi theo mùa: mùa xuân màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, chưa bao giờ nước sông Đà màu đen cả  đẹp độc đáo
•    Sông Đà gợi cảm:
+ cố nhân
+ con sông còn gợi lên những niềm thơ 
•    Cảnh hai bờ sông giống như một bờ tiền sử, cổ tích  thơ mộng trữ tình và thanh vắng
->    Tóm lại bằng tài năng uyên bác của mình Nguyễn tuân đã đưa người đọc đến với sông Đà cảm nhận được hai nét tính cách hung bạo và trữ tình của dòng sông. Hai nét tính cách đối lập nhưng lại thống nhất bổ sung cho nhau vì thế con sông Đà dưới trang viết của Nguyễn Tuân được xem như là một công trình nghệ thuật, một kì công của tạo hóa đã ban cho Tây Bắc
2.    Hình tượng người lái đò
–    Nguyễn Tuân nói về người lái đò là một tay lái ra hoa
–    Ngoại hình: có ngoại hình độc đáo “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”
–    Vẻ đẹp được thể hiện qua những lần vượt thác
•    Ông phải vượt qua 3 vòng thạch trận với vòng một có 5 cửa thì 4 cửa tử một cửa sinh lập lờ bên tả ngạn. Ông phải dùng hai chân kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi nhưng vẫn tỉnh táo chỉ huy để con thuyền vào cửa sinh.

22 tháng 2 2016

I. Tiểu dẫn

1. Tác giả

–       Tên khai sinh: Hồ Thành Công- sinh năm 1946. – Quê: Mộ Đức, Quảng Ngãi. 

–       Sự nghiệp văn chương:

 

+         Có các sáng tác hay và độc đáo về chiến tranh và thời hậu chiến.

+         Các tác phẩm: Những người đi tới biển (1977), Những ngọn sóng mặt trời (1984-1982), Khối vuông ru bích (1985).

+         Những năm gần đây: viết báo, tiểu luận phê bình Nhưng đóng góp quan trọng nhất là thơ ca.

–       Đặc điểm thơ:

+         Là tiếng nói của người tri thức nhiều suy tư, trăn trở về cuộc sống. 

+       Ông luôn tìm tòi khám phá, sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mơí mẻ.

2. Tác phẩm

–       Rút ra trong tập" Khối vuông ru bích"

–       Là tác phẩm tiêu biểu cho tư duy thơ Thanh Thảo:Giàu suy tư, mãnh liệt và phóng túng, ít nhiều nhuốm màu sắc tưọng trưng và siêu thực 

II. Đọc hiểu văn bản

1. Đọc

2. Tìm hiểu văn bản

Cảm nhận chung:

Bài thơ viết theo thể tự do thể hiện cảm xúc mãnh liệt của tác giả trước cái chết của Lor-ca qua hàng loạt hính ảnh mang tính biểu tượng. 

a. Hình tượng Lor-ca

–       Các hình ảnh: tiếng đàn bọt nước, áo choàng đỏ gắt, vầng trăng chếnh choáng, yên ngựa mỏi mòn đều mang tính biểu tượng.

–       Các dòng thơ không có hình ảnh về con người nhưng bóng dáng con người vẫn hiện lên rõ nét qua hình ảnh và âm thanh (tiếng đàn) màu sắc (áo choàng đỏ gắt),trạng thái (chếnh choáng, mỏi mòn)…

+        Như vậy ngay ở khổ thơ đầu chúng ta đã bước vào một không gian đậm chất Tây Ban Nha, với hình ảnh áo choàng đỏ gắt -áo choàng khoác trên mình những võ sĩ đấu bò tót -Một biểu tượng của Tây Ban Nha. 

+       Đồng thời người đọc không thể không nhận thấy cuộc hành trình của con người: đi lang thang về niềm đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngưạ mỏi mòn "đó là những cuộc độc hành của con người -Cuộc độc hành của Lorca (một anh hùng Tây Ban Nha).

–       Vẻ đẹp của Lor-ca và cái chết của Lor -ca:

–       Tác giả khắc hoạ nhân vật giữa một không gian hoang dã đậm chất Tây Ban Nha: "Tây Ban Nha /hát ngêu ngao /bỗng kinh hoàng/áo choàng bê bết đỏ" Tiếng hát ngêu ngao của những người Di-gan, áo choàng của võ sĩ đấu bò tót đã trở thành biểu tượng – cho sự đổ máu, cái chết và sự cầu khấn cho linh hồn. 

+         Trên nền ấy là hình ảnh Lor-ca:"bị điệu về bãi bắn – chàng đi như người mộng du " Một lần nữa chúng ta lại được chứng kiến Lor-ca với cuộc hành trình của anh -Cuộc hành trình đến với cái chết.

–       Trước cái chết: Lor-ca "đi như một người mộng du" -> Đó là thái độ bỏ quên tất cả, không bận lòng với bất cứ điều gì, kể cả cái chết đang cận kề từ đó để thấy được dũng khí của Lor-ca -Một con người đã dâng hiến cả tuổi trẻ, cả cuộc đời cho cuộc đấu tranh vì tự do. 

+         Hình ảnh: dòng sông, Lor-ca bơi sang ngang, đường chỉ tay đứt" lại một lần nữa miêu tả cuộc hành trình đi tới cái chết của Lor-ca. Cuộc đời dài rộng như dòng sông và Lor-ca "Bơi sang ngang" trên "chiếc ghi-ta màu bạc "cùng với hình ảnh "đường chỉ tay đứt"chính là những biểu tượng, những ẩn dụ về cái chết, sự nghiệt ngã của định mệnh về số phận ngắn ngủi.

+         Cũng cần phải thấy sự lô-gíc giữa các hình ảnh:Lor-ca bơi sang ngang /chiếc ghi -ta màu bạc Cuộc đời của Lor-ca là chuỗi dài những đam mê trong đó có niềm đam mê đàn ghi -ta. Và do đó "đàn ghi-ta"đã trở thành biểu tượng của cả cuộc sống nhiều hoài bão, màu sắc và thanh âm của Lor-ca.

–       Các hình ảnh "Hát nghêu ngao, đường chỉ tay đứt, lá bùa cô gái Di-gan" xâu chuỗi trong một trường liên tưởng về định mệnh, về cái chết, về số phận ngắn ngủi mang đậm màu sắc Tây Ban Nha. 

+         Ở đây động từ "ném" lặp lại hai lần (ném lá bùa, ném trái tim) nó trở thành biểu tượng về cái chết bi thảm nhưng cũng đầy chất bi tráng, dũng mãnh của Lor-ca.Từ đó để thấy được cảm xúc đầy mãnh liệt của Thanh Thảo lẫn với sự mến mộ, tôn vinh, cảm phục 

b. Hình tượng tiếng đàn: Khổ thơ đầy ắp những hình ảnh biểu tượng và siêu thực ở đây, tiếng đàn đã trở thành một nhân vật có linh hồn: "không ai chôn cất tiếng đàn", "tiếng đàn như cỏ mọc hoang".

Ở đây Lor-ca không hiện diện mà chỉ có sự hiện diện của tiếng đàn.Nó trở thành biểu tượng của tâm hồn Lor-ca, trái tim Lor-ca. Cuộc đời của ông sống tự do, thanh thản trong suốt như giọt nước mắt vầng trănglong lanh trong đáy giếng Lor-ca đã chết (về thể xác) nhưng dư âm vang vọng của cuộc đời ông thì còn mãi. 

–       Tiếng đàn xuất hiện nhiều lần trong bài thơ: "Tiếng đàn bọt nước ghi ta đá xanh tiếng ghi ta ròng ròng …"

–       Mang nhiều cung bậc: âm thanh vui tươi chia cắt tan vỡ có khi là âm thanh cái chết có khi là giai điệu tình yêu …

=> Là sự hài hoà của rất nhiều trạng thái cảm xúc Trước hết đó là cảm xúc của Lor-ca Cuộc đời Lor- ca như tiếng đàn ghi ta những âm thanh cung bậc của nó khi réo rắt về niềm yêu đời thiết tha, khi hùng tráng mạnh mẽ về những ngày chiến đấu sôi nổi , khi trầm lắng…Tiếng đàn ghi ta là bài ca về cuộc đời, số phận và cái chết của Lor-ca.

III. Tổng kết

Thể thơ tự do, không dấu câu, không dấu hiệu mở đầu, kết thúc.Sử dụng hình ảnh biểu tượng – siêu thực có sức chứa lớn về nội dung Màu sắc Tây Ban Nha rất đậm nét trong bài thơ Kết hợp hai yếu tố thơ và nhạc.

=> Bài thơ thể hiện nỗi đau xót sâu sắc trước cái chết bi thảm của Lor-ca.

26 tháng 2 2016

I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả Thanh Thảo:
- Thanh Thảo là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Ngòi bút hướng nội giàu suy tư, trăn trở về cuộc sống của nhân dân, đất nước và thời đại; luôn tìm tòi những hình thức biểu đạt mới.
2. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor- ca”
a) Nội dung:
- Bằng những nét phác họa mang dấu ấn của thơ siêu thực, tác giả đã làm hiện lên một Lor-ca mạnh mẽ song cũng thật lẻ loi trên con đường gập ghềnh, xa thẳm: con đường cách tân nghệ thuật và con đường hướng tới tự do.
- Bằng hệ thống hình ảnh vừa mang nghĩa thực vừa mang nghĩa ẩn dụ, tượng trưng, tác giả đã tái hiện cái chết bi thảm, dữ dội của Lor-ca, tiếng đàn - linh hồn của người nghệ sĩ - vẫn sống. Trong tiếng đàn ấy, nỗi đau và tình yêu, cái chết và sự bất tử hòa quyện vào nhau.
- Lời thơ di chúc của Lor-ca được nhắc lại, hàm ẩn cả tình yêu đất nước, tình yêu nghệ thuật và khát vọng cách tân nghệ thuật mãnh liệt.
- Cái chết không thể tiêu diệt được tâm hồn và những sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca. Nhà cách tân vĩ đại của đất nước Tây Ban Nha đã trở thành bất tử trong chính cuộc giã từ này.
b) Nghệ thuật :
Tác giả đã sử dụng thành công những thủ pháp tiêu biểu của thơ siêu thực, đặc biệt là chuỗi hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Ngôn ngữ thơ hàm súc, giàu sức gợi.

c) Ý nghĩa văn bản : 
Ngợi ca vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn và tài năng của Lor-ca- nhà thơ, nhà cách tân vĩ đại của văn học Tây Ban Nha và thế giới thế kỉ XX.

II. Luyện tập :
Bài tập 1: Nêu ý nghĩa lời đề từ của bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” (Thanh Thảo)
*Gợi ý:
- "Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Đây là câu thơ trích từ bài thơ “Ghi nhớ” thường được coi là di chúc của Lor-ca. Thanh Thảo đã lấy câu thơ này để làm đề từ cho bài thơ của mình.
- Ý nghĩa lời đề từ: 
+ Thể hiện tình yêu thiết tha của người nghệ sĩ Lor-ca với nghệ thuật và với quê hương xứ sở.
+ Thể hiện khát vọng cách tân nghệ thuật của Lor-ca. Ông biết thi ca của mình một ngày nào đó có thể sẽ ngăn cản những người đến sau trong sáng tạo nghệ thuật nên đã di chúc dặn lại cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để đi tới, để sáng tạo cái mới. 
+ Thanh Thảo đã lấy câu thơ của Lor-ca làm đề từ nhằm bày tỏ niềm thương tiếc, trân trọng và sự đồng cảm của mình đối với Lor-ca và khát vọng nghệ thuật của ông.

Bài tập 2. Cảm nhận của anh/chị về hình tượng Lor-ca trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo.
*Gợi ý :
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng Lor-ca.
b. Cảm nhận về hình tượngLor-ca
- Lor-ca là người nghệ sĩ, chiến sĩ đấu tranh cho tự do:
Lor-ca là con người ghét sự tàn bạo và bảo thủ. Trong xã hội Tây Ban Nha đương thời, hành trình đi tìm cái đẹp, cái thiện của Lor-ca có phần đơn độc. Tâm trạng ấy được Thanh Thảo thể hiện bằng những hình ảnh đầy ấn tượng (Dẫn chứng và phân tích. Chú ý các hình ảnh “áo choàng đỏ gắt”, “trên yên ngựa”,…)
- Lor-ca là con người giàu lòng yêu thương: 
Chàng trai Tây Ban Nha này gắn bó máu thịt với quê hương, xứ sở của mình. Tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, tình người ngấm vào những nốt nhạc tài năng và tiếng đàn ghi-ta huyền thoại (Dẫn chứng và phân tích. Chú ý hình ảnh, chi tiết nghệ thuật : “bầu trời cô gái ấy”;đặc biệt là hình tượng “tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta lá xanh…” )
- Lor-ca là con người có số phận đau thương: 
Cái chết của Lor-ca mang tính chất bi hùng. Lor-ca ngã xuống trước những thế lực bạo tàn, nhưng Lor-ca bất tử (Phân tích và dẫn chứng. Chú ý các hình ảnh “tiếng đàn như cỏ mọc hoang” và âm thanh của tiếng đàn được nhà thơ hình tượng hóa li-la li-la li-la…) 
- Lor-ca, con người bất tử:
Cái chết không thể tiêu diệt được tâm hồn và những sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca. Nhà cách tân vĩ đại của đất nước Tây Ban Nha đã trở thành bất tử trong chính cuộc giã từ này.
c. Đánh giá: 
- Hình tượng Lor-ca cùng với hình tượng tiếng đàn hòa hợp với nhau để làm nổi bật chủ đề tư tưởng của bài thơ: ngợi ca vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn và tài năng của Lor-ca.
- Tác giả đã sử dụng thành công những thủ pháp tiêu biểu của thơ siêu thực, đặc biệt là chuỗi hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng, ngôn ngữ thơ hàm súc, giàu sức gợi để xây dựng sinh động hình tượng Lor-ca.
Bài tập 3: Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau:

những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

 

Tây Ban Nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lor-ca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như người mộng du

 

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy...

(Đàn ghi ta của Lor-ca- Thanh Thảo)

*Gợi ý:
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ.
b. Cảm nhận về đoạn thơ.
- Hình tượng người nghệ sĩ Lor-ca:
+ Là người nghệ sĩ tài hoa, yêu tự do, lãng du mà đơn độc
+ Là hiện thân của văn hóa Tây Ban Nha.
+ Là nạn nhân của những thế lực phản động với cái chết oan khuất, bi phẫn.
- Hình tượng tiếng đàn.
+ Tiếng đàn là tâm hồn, là vẻ đẹp của nghệ thuật Lor-ca.
+ Tiếng đàn là thân phận của Lor-ca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác ngự trị.
- Cảm xúc của tác giả: ngưỡng mộ tài năng và tiếc thương cho thân phận của Lor-ca
- Đặc sắc nghệ thuật:
+ Hình tượng thơ có sự song hành và chuyển hóa lẫn nhau giữa hình ảnh Tây Ban Nha, Lor-ca và tiếng đàn.
+ Lời thơ giàu nhạc tính được tạo ra bởi các từ láy, điệp từ, điệp ngữ, chuỗi từ mô phỏng âm thanh.
+ Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, ẩn dụ…
c. Đánh giá chung

Bài tập 4: Bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca được kết thúc như thế nào? Ý nghĩa của cách kết thúc đó?
*Gợi ý:
- Bài thơ được kết thúc với câu thơ là chuỗi hợp âm “li-la li-la li-la”.
- Chuỗi hợp âm này được sử dụng kết thúc bài thơ có sự lặp lại để diễn tả sự bất diệt của tiếng đàn.
- Chuỗi hợp âm được đặt ở vị trí cuối bài thơ để khẳng định tiếng đàn là bất tử, nghệ thuật là bất tử và hình ảnh Lor-ca sẽ sống mãi với thời gian...

22 tháng 2 2016

I.    Tìm hiểu chung
1.    Tác giả
a.    Cuộc đời

–    Xuân Quỳnh tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh (1942-1988)
–    Quê ở làng La Khê- Hà Đông- Hà Tây
–    Xuân Quỳnh có một tuổi thơ thiếu thốn tình thương
•    Mẹ mất sớm
•    Không được ở với cha
->     Có lẽ chính điều này đã tác động rất lớn đến Xuân Quỳnh khiến cho nhà thơ luôn luôn khao khát má
->    ấm gia đình, thơ bà thì dạt dào cảm xúc yêu thương
–    Ban đâu Xuân Quỳnh chưa đến sự nghiệp văn chương mà là một diễn viên múa. Bà yêu một người bạn đồng nghiệp sau đó họ chia tay vì không hợp nhau
–    Sau này Xuân Quỳnh chuyển sang làm thơ và nên duyên vợ chồng với nhà viết kịch nổi tiếng lưu Quang Vũ. Cả hai người đã có những phút giây hạnh phúc bên nhau mặc dù cả hai đều có con riêng. Thế nhưng hạnh phúc chẳng được bao lâu thì gia đình họ gặp phải một tai nạn kinh hoàng. Và tai nạn ấy đã cướp đi tính mạng của tất cả gia đình họ
–    Xuân Quỳnh là một người phụ nữ có cuộc đời đa đoan nhiều lo âu vậy nên bà rất biết quý trọng và nâng niu  hạnh phúc gia đình
b.    Sự nghiệp
–    Xuân Quỳnh là một nhà thơ trẻ tiêu biểu thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước
–    Tác phẩm chính của bà: tự hát, hoa dọc chiến hào, tiếng gà trưa…
–    Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ giàu tình yêu thương, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm, đầy mãnh liệt và khát khao trong tình yêu. Vừa lo âu về sự tàn phai đỗ vỡ cũng như dự cảm bất trắc.
2.    Bài thơ
a.    Hoàn cảnh sáng tác
–    Bài thơ được sáng tác vào năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Bài thơ ra đời khi nhà thơ đã phải niếm trải những đỗ vỡ của cuộc hôn nhân thứ nhất. Đây là một bài thơ biểu hiện cho phong cách nghệ thuật của Xuân Quỳnh
–    Bài thơ được in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào
b.    Bố cục: 3 phần
–    Hai khổ đầu: sóng và tình yêu
–    Bốn khổ sau: tình yêu và nỗi nhớ
–    Còn lại: tình yêu và khát vọng
c.    Hình tượng
–    Có hai hình tượng luôn song hành cùng nhau đó là sóng và em. Có lúc phản ánh lẫn nhau, có lúc tách rời có lúc lại hòa vào làm một => hình tượng này tuy hai mà một
II.    Đọc hiểu chi tiết
1.    Sóng biển và tình yêu

–    Nhà thơ mở đầu bằng những đối lập của sóng biển:
“dữ dội” ><  “dịu êm”
“ồn ào” >< “lặng lẽ”
->   Sóng biển được diễn tả dưới nhiều cung bậc hình thức, nghệ thuật đối lập để thấy được những trạng thái của sóng biển. Và đồng thời nó cũng ẩn dụ cho hình tượng người em gái đang yêu. Khi yêu con gái thường có những cung bậc cảm xúc khác nhau lúc yêu thương nhưng lúc lại giận hờn vu vơ
–    Nghệ thuật đối lập “sông” >< “bể” cho thấy giới hạn, tình yêu thì không thể giới hạn người con trai không hiểu được người con gái thì người con gái sẽ tìm đến một người có tấm lòng rộng lớn hơn đủ hiểu người con gái là được
->    Bốn câu thơ thể hiện được quan niệm mới mẻ trong tình yêu của Xuân Quỳnh. Người con gái không phải chờ đợi mà tự có thể đi tìm lấy hạnh phúc của mình, quyết đình rời xa sông để tìm đến bể. quy luật của sóng từ trước đến nay vẫn thế cũng như quy luật của tình yêu cũng luôn mãi dạt dào trong trái tim trẻ.
2.    Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ
–    Đã yêu là phải nhớ nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết: 
“Đố ai sống được mà không yêu không nhớ không thương một kẻ nào”
–    Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh của sóng để cắt nghĩa tình yêu tuy nhiên nhà thơ lại không thể lí giải được. Nhà thơ tự mình đặt ra hàng loạt những câu hỏi tu từ nhưng cuối cùng lại trả lời trong một cái lắc đầu đáng yêu “em cũng không biết nữa khi nào ta yêu nhau”
–    Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ, con sóng ngoài kia ngày đêm vỗ vào bờ, dù là con sóng dưới lòng sông, con sóng trên mặt nước, dẫu có muôn với cách trở thì con sóng vẫn nhớ bờ mà vỗ về tha thiết, còn người con gái thì nhớ đến anh cả trong mơ vẫn cứ tưởng là vẫn thức
->    Như vậy hình tượng sóng để bộc lộ cho nỗi nhớ của mình. Đó là nỗi nhớ cháy bỏng, nhớ da diết không thể nào nguôi
–    Nhà thơ chọn cách nói ngược để thấy được sự yêu thương ấy. dẫu tình yêu có ngang trái đến mức nào thì em cũng chỉ nghĩ về phương anh mà thôi

26 tháng 2 2016

Ngữ văn lớp 12

22 tháng 2 2016

SOẠN BÀI TIẾNG HÁT CON TÀU

(Chế Lan Viên)

I. GIỚI THIỆU CHUNG:

– Chế Lan Viên là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Trước Cách mạng, thơ ông thể hiện tư tưởng siêu hình và bế tắc về thế giới và nghệ thuật. Sau 1945, hiện thực cách mạng và nhân dân đã làm cuộc đời và hồn thơ Chế Lan Viên thay đổi mạnh mẽ.

– “Tiếng hát con tàu” in trong tập “Ánh sáng và phù sa” (1960). Tác phẩm lấy cảm hứng từ cuộc vận động nhân dân miền xuôi lên Tây Bắc để xây dựng kinh tế miền núi những năm 58- 60.

II. NỘI DUNG CHÍNH: 

1. Nhan đề và lời đề từ: Hình ảnh “Con tàu” và “Tây Bắc” mang ý nghĩa biểu tượng trong suốt bài thơ.

* Ý nghĩa nhan đề:

– Bài thơ ra đời khi thực tế chưa có đường tàu lên Tây Bắc. Hình ảnh “con tàu” thực chất là hình ảnh biểu tượng thể hiện khát vọng lên đường và niềm mong ước của nhà thơ được đến với mọi miền đất nước. 

– Tây Bắc là vùng đất xa xôi của Tổ quốc cần được xây dựng lại sau chiến tranh

– “Tiếng hát con tàu”: Là tiếng hát của tâm hồn nhà thơ – một tâm hồn tràn ngập niềm tin vào lí tưởng, vào cuộc đời. Tâm hồn nhà thơ đã hóa thân thành con tàu, hăm hở làm cuộc hành trình đến với Tây Bắc, đến với cuộc sống lớn của nhân dân. Đến với đất nước, nhân dân cũng là đến với cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, trong đó có thơ ca.

* Ý nghĩa lời đề từ: Khẳng định vai trò của cuộc sống đối với tâm hồn người nghệ sĩ – cần mở lòng hòa nhập với cuộc sống để có cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong hoàn cảnh đất nước bắt tay vào xây dựng sau chiến tranh.

2. Là sự trăn trở, giục giã lên đường (khổ 1+2) : 

– Bằng những biểu tượng “con tàu” và “Tây Bắc” – nhà thơ bộc lộ cảm xúc, tình cảm đối với sự nghiệp xây dựng đất nước của toàn dân. 

– Lời thơ giục giã, gấp gáp, khẩn trương hàng loạt câu hỏi dồn dập, thôi thúc (anh đi chăng? anh có nghe? sao chửa ra đi?…) à là lời kêu gọi khẩn thiết, cấp bách, với mọi người hãy đi xây dựng Tây Bắc.

– Còn là lời tự vấn đầy trăn trở à thể hiện tâm hồn, khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân.

-> Tác giả kêu gọi mọi người cũng chính là tự nói với lòng mình, thể hiện nhận thức mới tiến bộ của người nghệ sĩ 

3. Kỉ niệm về Tây Bắc trong những ngày kháng chiến gian khổ (khổ 3 – 11): 

– Nhớ về vùng đất Tây Bắc “thiêng liêng, anh hùng”, đã trở thành biểu tượng của Đất nước gian lao mà anh dũng (khổ 3+4). Nhà thơ bộc lộ tình cảm của mình như đứa con với mẹ thân yêu “Cho con về gặp lại mẹ yêu thương”…

– Nhớ về Tây Bắc bằng niềm khao khát được trở về với nhân dân, với cảm xúc như được trở về cội nguồn, về với niềm hạnh phúc lớn lao (khổ 5). Nhà thơ sử dụng những hình ảnh so sánh cụ thể mang vẻ đẹp thơ mộng, niềm vui sướng, hạnh phúc được gặp lại những gì thân thiết sâu nặng (Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ. Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa. Như đưa trẻ thơ đói lòng gặp sữa. Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa). 

– Nhà thơ nhớ về những con người cụ thể: anh du kích, em liên lạc, bà mế tóc bạc, em gái nuôi quân…(khổ 6,7,8,11). Cách xưng hô gần gũi, thân thiết (con, anh con, em con, mế…), thể hiện sự gắn bó máu thịt và lòng biết ơn sâu nặng -> Chính điều đó đã khơi nguồn cho tinh thần trách nhiệm đối với Tây Bắc, với Tổ quốc.

– Từ những câu thơ bày tỏ tình cảm cụ thể, riêng tư đối với thiên nhiên, đất nước, con người Tây Bắc, nhà thơ đã nâng lên thành những câu thơ có chất suy tưởng khái quát giống như châm ngôn nhưng chứa chan tình cảm, xúc cảm về quê hương đất nước: “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mấy phủ – Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương- Khi ta ở chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”… “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”.

-> Đoạn thơ đã gợi lên một cách thành kính, đầy ân tình về những kỉ niệm thiêng liêng đẹp đẽ ở Tây Bắc trong những năm kháng chiến gian khổ.

4. Hướng về Tây Bắc trong công cuộc xây dựng đất nước (khổ 12 – 15) : 

– Niềm khao khát được hòa nhập tình cảm của bản thân và nghĩa vụ với nhân dân, đất nước (khổ 12,13).

– Niềm khao khát được trở về Tây Bắc như để khẳng định lại phẩm chất cao quí của con người đã được tôi luyện trong gian khổ của chiến tranh, nay được phát huy ở công cuộc xây dựng đất nước (khổ 14).

– Khổ thơ cuối với nhiều hình ảnh thơ mộng, lãng mạn, mang ý nghĩa biểu tượng (Tây Bắc ơi…mẹ của hồn thơ, mộng tưởng, vầng trăng, mặt hồng em, suối lớn mùa xuân..) à bộc lộ niềm vui sướng được trở về với Tây Bắc như trở về với hồn thơ, với cội nguồn sáng tạo nghệ thuật, được hòa mình với cuộc sống của nhân dân.

III. NGHỆ THUẬT:

– Hình ảnh thơ mới lạ, phong phú, có giá trị thẩm mĩ cao, tạo nên những liên tưởng so sánh bất ngờ.

– Lời thơ có nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc, giàu chất trí tuệ, bộc lộ cách thể hiện riêng tài hoa, độc đáo, tạo ấn tượng thẩm mỹ cho người đọc.

– Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật với giọng điệu tha thiết, chân thành.

IV. KẾT LUẬN:

– Bài thơ thể hiện những cảm xúc chân thành, tha thiết của tác giả trong công cuộc dựng xây đất nước, sự hòa nhập với nhân dân, với cuộc sống mới, mà ở đó tác giả đã tìm đuợc nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho mình.