K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 1 2019

các bạn ơi xem bài này có bị sai đề ko

cBài tham khảo 

Giang Biên, tức Vịa Đàm xưa, hiện là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, gồm hai làng Tình Quang và Quán Tình. Vào cuối thời Nguyễn, Tình Quang và Quán Tình là hai đơn vị hành chính độc lập, thuộc tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. 

Làng Quán Tình có tên Nôm là Kẻ Tạnh. Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quang cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của mình với người dân nơi đây.

Nguyên ủy, làng Quán Tình nằm phía trong đê, làng có xóm trên, xóm dưới, đến năm 1956, các xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Ngoài ra, làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình. Trong làng có ba dòng họ chính, là: Vũ, Nguyễn, Trần. Quán Tình từng nổi tiếng với nghề trồng đay vặn võng. 

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Giang Biên cùng cả nước đã giành được những chiến công oanh liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước, viết nên những trang sử truyền thống vẻ vang của địa phương và góp phần tô thắm thêm truyền thống vinh quang của Thủ đô. Bên cạnh đó, Giang Biên còn có truyền thống văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn xã, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII. 

Đình Quán Tình thờ tướng quân Nguyễn Nộn, một nhân vật lịch sử cuối thời Lý - đầu thời Trần. Qua tư liệu lịch sử và truyền thuyết, sự tích của thần được ghi nhận như sau:

Nguyễn Nộn là người xã Phủ Dực (huyện Tiên Du) nay là xã Phù Đổng, Gia Lâm. Theo Đại Việt sử lược, ông là người có gương mặt đẹp, lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát. Phả hệ họ Nguyễn chép, ông là cháu 5 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc (thời nhà Đinh).

Hiện sử sách ghi chép về ông cũng khá sơ sài. Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều cho biết: Nguyễn Nộn vốn là một cư sĩ ở hương Phù Đồng. Tháng 8 năm 1218, ông bắt được vàng và ngọc mà không đem dâng vua Lý Huệ Tông, nên bị triều đình xuống chiếu bắt giam.

Tháng 2 năm 1219, quyền thần Trần Tự Khánh thấy ông là người có tài, bèn tâu với vua Huệ Tông xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua Huệ Tông chuẩn tấu. Tháng 10 năm đó, Tự Khánh sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai. Tháng 3 năm 1220, Nguyễn Nộn nhân cầm quân trong tay không trở về triều, trấn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua Huệ Tông sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song, vì vua có bệnh, không thể chế ngự được, trong khi họ Trần cũng đang mưu tính đoạt ngôi nhà lý nên chưa tính tới Nguyễn Nộn.

Đại Việt sử lược, cuốn sử ra đời vào thời Trần lại cho biết: Nguyễn Nộn vốn là bộ tướng của tướng Trần Tự Khánh, theo Tự Khánh tham gia vào những cuộc chinh chiến với các sứ quân và chống lại nhà Lý từ đầu thời Lý Huệ Tông chứ không phải tới năm 1218 ông mới xuất hiện trên chính trường. Cũng theo sách này, năm 1213, Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang mời ông (Nguyễn Nộn) về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng, giam cầm ông. Tuy nhiên, chưa rõ vì lý do gì mà Nguyễn Nộn bị Tự Khánh bắt giam.

Tháng 9, Trần Tự Khánh mở trói dây thép cho Nguyễn Nộn. Tuy ở trong cảnh ngục tù mà thần sắc Nguyễn Nộn vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Khi thấy bọn dũng sĩ nhảy, ông liền mang theo cả cái dây xích sắt mà nhảy và nhảy mạnh hơn bọn dũng sĩ. Trần Tự Khánh trông thấy, lấy làm lạ, bèn thả ông, cho làm tướng và đem người con gái của bà dì gả cho ông. Sau đó, Tự Khánh lại trao cho ông hai ấp là Trần Khê và Cả Lũ.

Năm 1213, Nguyễn Nộn cầm một cánh quân họ Trần chống lại quân triều đình do đích thân Lý Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông chỉ huy. Ông cùng các tướng họ Trần đánh bại quân nhà Lý. Em họ Trần Tự Khánh là Trần Thủ Độ cùng Trần Hiến Sâm ở tả ngạn tiến đánh thắng quân triều đình. Nguyễn Nộn từ Quốc Oai tiến đến chợ Dừa, cùng Phan Lân đánh thắng các tướng ở Hồng Châu là Đoàn Cấm, Vũ hốt. Lý Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu.

Sau trận này, ông được Trần Tự Khánh giao trấn giữ vùng Bắc Giang. Trần Tự Khánh lên Lạng Châu rước Huệ Tông không được, liền lập hoàng thân khác lên ngôi, tức là vua Càn Ninh.

Năm 1214, an hem họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc NInh), Nguyễn Nộn giết chết Đoàn Nguyễn, nhưng cũng bị thương ở lưng.

Tuy nhiên, lúc này nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Nhân thời cơ đó, Nguyễn Nộn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hỏa đốt kinh đô, rồi đưa vua mới là Càn Ninh xuống hành cung Lý Nhân (Hà Nam).

Nguyễn Nộn đem binh đến Thăng Long đánh nhau với Tự Khánh. Huệ Tông và Thái hậu khi đang trên đường từ Nam Sách trở về Thăng Long, phong cho Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay Nộn chống lại họ Trần. Từ đó, cục diện trong nước lúc này hình thành ba thế lực: Phía Bắc là Nguyễn Nộn, phía Đông là Đoàn Thượng, phía Nam là Trần Tự Khánh.

Tháng 1 năm 1215, hai tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai thông đồng với Nguyễn Nộn đánh Trần Tự Khánh, nhưng Đường và Giai lại hàng Trần Tự Khánh. Tháng 2, Nguyễn Nộn được phong tước vương. Tháng 3, Nguyễn Nộn đánh thắng Nguyễn Đường và Nguyễn Giai.

Sau đó, một loạt lực lượng cát cứ khác nổi dậy chiếm cứ các nơi. Sau nhiều lần bôn tẩu, cuối cùng, đến năm 1216, Lý Huệ Tông buộc phải dựa vào anh vợ là Trần Tự Khánh là lực lượng mạnh hơn cả. Tự Khánh lại phụng thờ Huệ Tông, mượn tiếng Huệ Tông để chinh phục được nhiều sứ quân khác. Huệ Tông hạ chiếu cho Nguyễn Nộn làm lính thường.

Kết cục của Nguyễn Nộn cũng được sử sách ghi chép không thống nhất. Các nguồn sử liệu khác nhau ghi chênh lệch về thời gian khá nhiều. Chỉ có một điểm chung duy nhất, là các nguồn sử sách đều xác nhận ông chết vì bệnh.

Theo Đại Việt sử lược, tháng 6 năm 1219, Trần Tự Khánh sai tướng Vương Lê đem binh về Nam Sách đánh Nguyễn Nộn. Quân hai bên giằng co, Trần Tự Khánh không thắng nổi quân của Nộn. Tháng chạp, Nguyễn Nộn bị bệnh nặng. Khi quân của Trần Tự Khánh đang đóng ở bến Triều Đông thì Nguyễn Nộn đã chết rồi. Ngày Canh Ngọ, tướng của Nộn là Phi Thám ra đầu hàng Trần Tự Khánh, có mang theo thái hậu và các công chúa (con vua Huệ Tông).

Như vậy, trong khi vua Huệ Tông trong tay Trần Tự Khánh thì có một bộ phận tôn thất nhà Lý lại trong tay Nguyễn Nộn.

Theo các sách sử khác, sau năm 1219, Nguyễn Nộn vẫn còn hoạt động. Năm 1220, trong khi các sứ quân khác bị dẹp thì Nguyễn nộn và Đoàn Thượng vẫn là hai sứ quân tồn tại chống lại triều đình (trong tay họ Trần).

Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, em ruột là Trần Thừa và em họ là Trần Thủ Độ lên thay nắm quyền điều hành việc triều đình. Thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh. Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu.

Năm 1225, Trần Thủ Độ chủ xướng việc nhà Trần thay nhà Lý và lo việc đánh dẹp. Tuy nhiên, bấy giờ Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, Trần Thủ Độ bèn phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn.

Tháng 12 năm 1228, Nguyễn Nộn đánh bại và giết chết Đoàn Thượng. Nhân đó, ông gộp cả quân của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Thanh thế của Nguyễn Nộn rất lẫy lừng. Trần Thủ Độ lo lắng, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương. Sau đó, Thủ Độ lại đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho ông để ngầm dò la tin tức. Biết ý Thủ Độ muốn dùng công chúa để lung lạc mình và dò la tin tức, ông cho nha tướng canh giữ chỗ ông ở. Vì thế, công chúa không thể báo được tin gì cho triều đình.

Tháng 3 năm 1229, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ham chơi buông thả, chè chén chơi bời bừa bãi. Tuy nhiên, ông cũng tự lượng sức, biết thế mình không thể cùng đối lập với nhà Trần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Cuối năm đó, ông ốm nặng, triều đình sai nội nhân tới hỏi thăm. Nguyễn Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khỏe mạnh, nhưng không bao lâu thì ông qua đời. Lực lượng của ông nhanh chóng tan rã        .

Như vậy, Đại Việt sử lược phản ánh hoạt động của Nguyễn Nộn từ năm 1213 tới 1219, còn “Toàn thư” và “Cương mục” nêu hành trạng của ông từ 1218 đến 1229.

Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, Nguyễn Nộn tham gia chính trường từ 1213 và theo Trần Tự Khánh như Đại Việt sử lược phản ánh. Tuy nhiên, các chuyên gia nghi ngờ về cái chết của ông (năm 1219). Theo nhóm ý kiến này, sau một trận thua quân Trần Tự Khánh, “vợ con Nguyễn Nộn đều bị bắt, Nguyễn Nộn mang theo 100 người về giữ Phù Ninh” và sau đó vẫn còn sống chứ không “ốm chết” như Đại Việt sử lược nêu. Ông tiếp tục tái lập lực lượng và giữ được Bắc Giang. Những sự kiện rong quãng đời sau đó của ông, như được gả công chúa Ngoạn Thiềm, giết được sứ quân Đoàn Thượng và xưng Hoài Vũ Đạo Vương như “Toàn thư” và “Cương mục” ghi. Ông ốm mất năm 1229.

Theo một số gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Nộn là cháu 5 đời của Nguyễn Bặc và là tổ của họ Nguyễn ở Gia Miêu (Tống Sơn - Thanh Hóa), là tổ tiên của chúa Nguyễn. Tuy nhiên, chính sử nhà Nguyễn không xác nhận điều này. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của chính nhà Nguyễn - hậu thế của các chúa Nguyễn - xác nhận, Nguyễn Nộn là “người làng Phù Minh, huyện Tiên Du” (nay là Phù Dực, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Như vậy, Nguyễn Nộn không phải người Tống Sơn - Thanh Hóa…

Tương truyền, sau khi Nguyễn Nộn mất, dân Quán Tình cùng các làng xã bên bờ Bắc sông Hồng đều lập miếu và tôn ông làm Thành hoàng làng, trải qua các triều vua đều gia phong mỹ tục.

Hiện nay, không có nguồn tư liệu nào ghi chép lại niên đại xây dựng đình Quán Tình. Sự thiếu vắng của nguồn tư liệu thành văn đã không cho phép xác định niên đại xây dựng của ngôi đình một cách chính xác.

Qua tìm hiểu lịch sử hình thành đình Quán Tình và sự tồn tại của ngôi đình trong quá trình lịch sử đến nay, để xác định niên đại của di tích, có thể dựa vào những tư liệu, hiện vật còn lại gắn với sự tồn tại và phát triển của ngôi đình.

Hiện di tích còn lưu giữ được 02 tấm bia, trong đó có bia dựng ngày mùng 1 tháng 1 năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779). Theo đó, bước đầu có thể đoán định, ngôi đình hiện nay ít nhất đã xuất hiện từ thế kỷ XVIII, trước năm (1779). 

Trải qua thời gian dài tồn tại, đình Quán Tình đã được trùng tu nhiều lần. Trước kia, đình nằm ở vị trí dưới vườn, sau được làm lên ao miếu. Hiện di tích, còn lưu giữ được dòng lạc khoản trên nóc nhà hữu vu đề “Duy Tân Giáp Dần niên, trọng đông thụ trụ thượng lương đại cát” - Ngày tốt, tháng giữa Đông, năm Giáp Dần, niên hiệu Duy Tân (1914) cất nóc nhà hữu vu. Năm 1950, hậu cung của đình bị Pháp phá hủy. Hòa bình lập lại, di tích được sử dụng làm trường học. Các đồ thờ tự của đình phần lớn bị mất mát và hư hỏng. Năm Giáp Thân (2004), chính quyền và nhân dân địa phương trùng tu lại toàn bộ ngôi đình trên vị trí và khuôn viên cũ, quy mô giữ nguyên vẹn đến hiện nay.

Đình Quán Tình tọa lạc trên một khu đất rộng thoáng ven đê sông Đuống, phía trước có hồ nước rộng, giữa hồ có gò đất cao tạo cảnh quan đẹp, tiếp đến là nghi môn (gồm một cửa giữa và hai cửa tả, hữu), sau đến sân lễ hội và khu kiến trúc chính chiếm lĩnh vị trí trọng tâm.

Mở đầu di tích là nghi môn, được tạo kiểu tứ trụ. Đỉnh trụ là bốn chim phượng chụm đuôi vào nhau dưới dạng lá lật, bốn đầu phượng quay về bốn hướng tạo thành hình trái giành. Phía dưới tạo hình lồng đèn trang trí tứ linh (long, ly, quy, phượng). Phần thân của trụ biểu được tạo khung để đắp câu đối chữ Hán. Đế trụ thắt cổ bổng. Đỉnh của hai trụ phụ được trang trí hai tượng nghê trong tư thế chầu xuống. Phía dưới tạo hình mui luyện, lồng đèn, phần thân của trụ biểu cũng được bổ khung (để trơn không trang trí), đế trụ thắt cổ bồng. Phần nối tiếp giữa các cột trụ chính và cột phụ được làm hai cửa tả, hữu dưới dạng mái chồng diêm (hai tầng mái), đỉnh mái trang trí đề tài lưỡng long chầu nhật/nguyệt. Phần cổ diêm bổ khung hình chữ nhật đề ba chữ “Đình Quán Tình”. Hai bên cổng tả, hữu đắp nổi bức phù điêu quan giám sát.

Qua cổng là một lối đi rộng, hai bên trồng cau và các loại cây lưu niên để tạo cảnh quan. Tiếp theo, là một sân lễ hội rộng lát gạch đỏ, kích thước (30 x 30)cm. Qua bậc tam cấp lát đá xanh dẫn lên khu kiến trúc chính.

Đại đình được xây dựng trên một khu nên cao, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ “Đinh”, gồm tiền tế và hậu cung.

Tiền tế là một nếp nhà 5 gian, 2 chái, xây gạch, lợp ngói. Các góc mái được uốn cong vút, tạo cảm giác bay bổng cho toàn bộ kiến trúc. Chính giữa bờ nóc trang trí đề tài lưỡng long chậu nhật/nguyệt. Phía trước mở hệ thống cửa bức bàn kiểu thượng song hạ bản ở ba gian giữa, hai gian hồi làm hệ thống song gỗ. Hai bên tường hồi tả, hữu mở hai cửa sổ trang trí chữ “Thọ” nhằm tạo độ thoáng cho không gian bên trong.

Cấu trúc bộ khung gỗ khá vững chắc, với 6 bộ vì kèo được làm theo dạng thức “giá chiêng chồng rường con nhị”, tì lực trên 5 hàng chân cột. Các đầu bẩy phía sau ăn mộng vào cột lửng và gác trực tiếp trên tường hậu. Kết cấu vì gồm những con rường kê lên nhau qua những đấu vuông thót đáy, dày, cao. Các rường ngắn dần về phía thượng lương, để con rường cuối cùng đội thượng lương qua một đấu nhỏ được trang trí hình chữ Triện. Để tránh sự nặng nề cho bộ vì nóc và thỏa mãn nhu cầu mở rộng lòng nhà, các nghệ nhân đã thay con rường ở sát câu đầu bằng một đôi rường cụt. Kết cấu này vừa mang tính chất chồng rường, vừa mang tính chất giá chiêng. Song, chiếc cột trốn của giá chiêng được thay thế bằng con đường cụt để đội đầu rường trên. Toàn bộ hệ thống trên được đỡ bởi một quá giang to, khỏe, chạm khắc hoa văn thực vật, được ăn mộng vào đầu hai cột cái. 

Hậu cung gồm 3 gian chạy dọc, nối với gian giữa tiền tế tạo thành kết cấu kiểu chữ “Đinh”. Các bộ vì được làm giống như ngoài tiền tế.

Ngoài kiến trúc chính, đình Quán Tình còn hai dãy tả, hữ vu, mỗi dãy 5 gian 2 dĩ, mái lợp ngói ta, nền lát gạch Bát, kích thước (30 x 30)cm.

Nhìn tổng thể, trang trí kiến trúc của đình vẫn bảo lưu được phong cách nghệ thuật dân gian truyền thống (thế kỷ XX), với những hình tượng gắn với cầu mùa, phát sinh, phát triển… - những ước vọng truyền đời của người nông dân.

Về không gian nội thất và thờ tự: gian giữa tiền tế bài trí một hương án cùng các đồ tế tự. Đây là nơi diễn ra các nghi lễ phụng thờ Thành hoàng làng. Hai bên bài trí chiêng và trống theo quan niệm “tả chinh, hữu cổ” (bên trái treo chiêng, bên phải treo trống). Hồi bên trái thờ hậu thần, hồi phải bài trí kiệu long đình. Các gian bên để trống, làm nơi hội họp mỗi khi có việc làng. Trong tòa hậu cung xây một bệ gạch cao, bên trên bài trí các đồ tế tự và 01 bộ long ngai Thành hoàng làng - “Phụng sự thần hoàng Nguyễn Nộn”. Trên các di vật của đình, như long ngai, bài vị, hạc thờ, kiệu… chủ yếu trang trí đề tài tứ linh. Đôi hạc thờ với chân cao, cổ cao, đường nét mềm mại uyển chuyển, được đặt trên lưng rùa mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX - XX. 

Sau một thời gian gián đoạn, trong những năm gần đây, lễ hội Quán Tình đã được phục hội, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng và du khách thập phượng. Theo thông lệ, cứ 5 năm làng tổ chức hội lớn một lần, vào ngày mùng 7 - 8 tháng Hai để tưởng nhớ công đức của vị thần. Trong ngày chính hội, sau lễ khai mạc, dân làng tổ chức rước nước từ sông Đuống về đình. Đoàn rước xuất phát từ sân đình ngược lên đê sông Đuống, đến cầu Đuống để lấy nước. Sau khi lấy nước ở giữa sông Đuống, đoàn rước trở về đình, dân làng tổ chức tế thánh. Chủ tế thường là người cao niên có phẩm hàm hay đỗ đạt, thân nhân trong sạch, trai gái đề huề, nhà không vướng bụi (có tang)... Trong đòn tế còn có 4 quan viên bồi tế và những người chấp sự… Trước đây, làng chỉ có đội tế nam, hiện nay còn có thêm đội tế nữ.

Theo tục lệ, ban tổ chức lễ hội dành riêng ngày 7 tháng Hai  để dân làng và khách thập phương lễ thánh. Nhân dân háo hức, thành tâm sắm lễ mang ra đình, với mong ước một năm mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, nhà nhà no đủ...

Trong ngày chính hội, có cả ngàn người đến với lễ hội Quán Tình, tiếng trống đình, tiếng chuông chùa, tiếng nhạc của hội bát âm, tiếng phách sinh tiền đã tạo nên quang cảnh ngày hội làm nức lòng người. Ngoài những lễ nghi, trong hội còn những hoạt động văn hóa dân gian vô cùng đặc sắc, như đấu vật, bóng chuyền, đánh cờ, đan võng truyền thống.

Trong bối cảnh náo nhiệt của xu thế đô thị hóa hiện nay, sự tồn tại của đình Quán Tình cùng với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học liên quan đã góp phần làm phong phú thêm hệ thống di tích lịch sử - văn hóa trong khu vực và Thủ đô. Đó là một điểm sáng văn hóa cần được bảo vệ và phát huy giá trị phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong hiện tại và tương lai./.

(Theo Hồ sơ xếp hạng di tích đình Quán Tình - Tư liệu Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Hà Nội).

Hình ảnh Di tích Đình Quán Tình

CHÙA QUÁN TÌNH (THÁI LINH QUÁN TỰ)

(PHƯỜNG GIANG BIÊN, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

Chùa Quán Tình còn có tên gọi khác là “Thái Linh Quán tự” hay “Thái Linh quán”, nằm trên địa phận phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. 

Cuối thời Lê Trung hưng, đầu thời Nguyễn, Quán Tình/Kẻ Tạnh là một xã thuộc tổng Đặng Xá huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (năm Minh Mạng thứ ba - 1822, đổi làm trấn Bắc Ninh, năm thứ 12 - 1831, đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Trong kháng chiến chống Pháp, Quán Tình thuộc xã Trường Chinh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Sau cải cách ruộng đất, xã Trường Chinh đổi tên thành Giang Biên…

Quán Tình, tức Kẻ Tạnh (vùng trời quang đất tạnh) - Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quanh cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân, trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của công chúa với nhân dân nơi đây.

Xưa kia, làng Quán Tình nằm phía trong đê, có xóm trên và xóm dưới. Đến năm 1956, xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình.

Đến tháng 5/1961, xã Giang Biên cùng các xã của huyện Gia Lâm được chuyển về Hà Nội. Từ cuối tháng 11 năm 2004, xã Giang Biên được chuyển thành phường Giang Biên, thuộc quận Long Biên. Quán Tình có 3 dòng họ chính là: họ Vũ, họ Nguyễn và họ Trần, từng nổi tiếng với nghề nghề trồng đay vặn võng. Cùng với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, dựng làng giữ nước, Giang Biên còn có truyền thống lịch sử - văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn phường, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII. Trong đó, có đình - chùa Quán Tình, một cụm di tích có lịch sử lâu đời, gắn liền với lịch sử phát triển của địa phương.

Quán Tình nằm ở ven sông Đuống, có bãi bờ màu mỡ, một điều kiện rất thuận lợi để dân làng canh tác hoa màu và trồng dâu nuôi tằm. Một số người dân trong làng từng buôn bán tre, gỗ - từ sông Đuống, theo sông Hồng, lên các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc.

Sống ven sông Đuống, giữa một vùng chịu nhiều tác động của thiên nhiên và xã hội, nên người Quán Tình có bản tính cứng cỏi, đủ sức chống chọi với thiên tai khắc nghiệt. Dưới thời quân chủ, làng có rất nhiều người theo nghiệp võ. Cuối thế kỷ XVIII, làng nổi lên với Vũ Văn Khuê, một viên quan võ, làm Tham Đốc Tứ thành, vào năm Đinh Mùi đời Chiêu Thống (1787), đã chiêu binh chống lại quân Tây Sơn, sau bị bắt và giết. Hai con của ông là Vũ Tuân và Vũ Hoan theo Chiêu Thống sang tận Yên Kinh (Trung Quốc) rồi chết ở đó. Làng thờ Hoài Đạo cư sĩ, vừa là một Nho sĩ, vừa là một Đạo sĩ, rất giỏi kiếm thuật, từng ở chùa Sùng Khánh (làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, nay thuộc huyện Gia Lâm). Vào đời vua Lý Huệ Tông (1211 - 1224), đất nước lâm vào cảnh loạn lạc, dưới đồng bằng, giặc cướp nổi lên như ong, vùng biên cương giặc Man gây nhiễu, triều đình không thể dẹp yên được. Các quan trong triều đã tiến cử Hoài Đạo cư sĩ. Ông đã nhận lệnh lên đường dẹp loạn. Khi Trần Thủ Độ mưu toan soán ngôi nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi để lập ra nhà Trần, với tư tưởng trung quân, Hoài Đạo cư sĩ đã dấy quân chiếm cứ vùng Bắc Ninh - Bắc Giang, tự xưng là Hoài Đạo Vương, liên kết cùng Đoàn Thượng chống lại. Thủ Độ đem quân trấn dẹp nhưng không được, phải giảng hòa, rồi dùng kế ly tán để Hoài Đạo cư sĩ chống lại và đánh tan thế lực của Đoàn Thượng. Với thanh thế lẫy lừng, Hoài Đạo cư sĩ tự xung là Đại Thắng Vương. Thủ Độ lo sợ, phải xin vua Trần phong cho Hoài Đạo cư sĩ làm Hoài Đạo Hiếu Vũ vương, lại gả cho công chúa Ngoạn Thiền. Sau đó, Hoài Đạo đã cùng công chúa lập tư dinh ở xã Ninh Giang (nay là đất Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm), cùng chung sống đến cuối đời. Sau khi ông mất, được an tang tại xứ đồng Mạc, làng Phù Dực (nay thuộc xã Phù Đổng). Nhiều làng ven sông Đuống tôn thờ Hoài Đạo làm Phúc thần, tế lễ long trọng vào ngày mồng Một tháng Ba, tức ngày hóa của ông.

Có lẽ, từ xa xưa, làng Quán Tình đã có Đạo quán (Thái Linh quán), sau được chuyển hóa thành chùa - Thái Linh Quán tự. Tấm bia khắc năm Thịnh Đức thứ ba (1655) cho biết, Thái Linh Quán tự là cổ tích danh lam, triều trước dựng ở gần sông, sau bị trôi mất, nay phải dựng lại, do công của Chánh Vương phủ nội cung tần cung tiến của tiền.

Chùa quay hướng Đông Nam, gồm các hạng mục chính: cổng, sân, tiền đường, thượng điện, điện Mẫu, nhà tăng, nhà bia, tháp mộ,…

Cổng chùa là một kiến trúc xây bằng gạch, với ba cửa ra vào, có mái che. Bên trên ghi bốn chữ “Thái Linh Quán tự”. Qua cổng là một sân rộng lát gạch Giếng Đáy màu đỏ, có kích thước (30 x 30) cm. Sát hiên tiền đường đặt một lư hương đá, hai bên đặt 2 tượng sư tử hý cầu bằng chất liệu đá. Phía trước là một ao rộng, quanh sân là khu vườn chùa, trồng nhiều loại cây lưu niên, tạo cảnh quan bóng mát. 

Tiền đường gồm 5 gian hai dĩ, xây gạch, được kết cấu theo dạng chồng diêm, hai tầng tám mái, lợp ngói ta, với các hệ thống trấn song con tiện bằng gỗ. Phía trước là một khoảng hiên rộng khoảng 1,6m, với 9 hàng chân cột bằng đá, hình trụ tròn, với mặt trước khắc câu đối bằng chữ Hán, bẩy hiên trang trí hình rồng lá, sư tử vờn cầu. Mặt trước tiền đường có hệ thống cửa bức bàn kiểu “thượng song hạ bản”, phía dưới trang trí hoa sen, bên trên là chữ Phúc, hoa văn hình học, cuốn thư. Phần nền tiền đường được tôn cao hơn mặt sân, với chín bậc lên xuống, bằng chất liệu đá. Hành lang xung được cấu trúc theo dạng tường lửng, có các cột trụ đỡ mái tạo sự chắc, khỏe cho kiến trúc, phía dưới các chân cột đá tạo tác hình hoa sen cách điệu. Bộ khung kiến trúc liên kết với nhau bằng các bộ vì kèo được làm theo dạng thức giá chiêng chồng rường con nhị, hạ cốn mê, bẩy hiên, tì lực trên 4 hàng chân, gồm 2 hàng cột cái và một hàng cột hiên. Các bộ vì cột trốn tì lực lên hệ thống tường hậu phía sau. Phía trước, tiếp giáp với tường hồi là cột đồng trụ, bên trên đắp hình bốn con phượng, trong tư thế chụm đầu vào nhau, tạo hình trái giành. Phía dưới là các ô lồng đèn, bốn phía đắp đề tài “tứ linh”. Thân trụ bổ ô đắp câu đối chữ Hán. Tiền đường là nơi bài trí tượng Đức Ông, Thánh Tăng, Hộ pháp (Khuyến Thiện, Trừng Ác). Các tượng này đều được đặt trên ban thờ cùng với hệ thống các đồ thờ khác, như bát hương, mâm bồng, lọ hoa, chân đèn…

Thượng điện gồm 1 gian 2 dĩ, nối liền với gian giữa nhà tiền đường, với phần trong cùng được làm theo kiểu bát giác. Chính giữa xây bậc bên trên đặt 5 lớp tượng, gồm: Tam thế Phật; Di Đà Tam tôn; Hoa Nghiêm Tam Thánh; Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn; Phật A Di Đà (bằng đá xanh, cao khoảng 1,7m).

Các gian trong thượng điện đều treo cửa võng, trang trí bánh xe pháp luân và hoa cúc, bên dưới treo câu đối. Phía ngoài cùng, sát với gian tiền đường là tòa cửu long và tượng Thích Ca sơ sinh.

Điện Mẫu nằm bên cạnh chùa chính, mới được nhân dân tu bổ và tôn tạo. Chính giữa điện thờ là tượng đức Thánh Trần Hưng Đạo, vị tướng có công lớn trong sự nghiệp đánh giặc Nguyên - Mông bảo vệ xã tắc, phía dưới là Tam tòa Thánh Mẫu. Đây là một hình thức tín ngưỡng dân dã gắn Mẫu với chức năng tạo thiên, lập địa để mang tư cách như một anh hùng văn hóa của dân tộc…

Nhà Tăng ở phía sau, bên trái Tam bảo, được dựng năm 2005, gồm 5 gian tường hồi bít đốc. Nhà bia dược dựng trong thời kỳ hòa bình lập lại để làm nơi thờ Phật tạm thời. Sau khi tu bôt Tam bảo thì kiến trúc này được chuyển thành nhà bia. Khu vườn tháp ở phía sau điện Mẫu.

Ngoài giá trị về mặt kiến trúc - nghệ thuật, chùa Quán Tình còn lưu giữ được hệ thống văn bia, chuông, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX, cùng một số đồ thờ tự khác. Dây là những di vật có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học, đồng thời còn là những di vật quý trong kho tàng di sản văn hóa nước ta, giúp cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu về sự phát triển, hình thành của cư dân làng xã, góp phần quan trọng vào việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc.

Các hoạt động văn hóa, lễ hội luôn là một phần không thể thiếu trong mỗi di tích và góp phần không nhỏ vào việc duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy giá trị di tích, đưa đạo pháp đến với con người. Ngoài chức năng là nơi tu tập, hằng năm chùa Quán Tình còn tổ chức các lễ tiết sau (tính theo lịch Âm):

+ Ngày 15/1: Lễ Thượng nguyên.

+ Ngày 08/2: Lễ vía Đức Phật Thích Ca xuất gia đi tu.

+ Ngày 15/2: Lễ vía Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn.

+ Ngày 19/2: Lễ vía Bồ Tát Quan Âm.

+ Ngày 21/2: Lễ vía Bồ Tát Phổ Hiền.

+ Ngày 16/3: Lễ vía Đức Quan Âm chuẩn đề.

+ Ngày 04/4: Lễ vía Bồ tát.

+ Ngày 15/4: Lễ vía Đức Phật Thích Ca đản sinh (lễ Phật đản).

+ Tháng 6: Lễ vía Đức Bồ Tát Quan Âm thành đạo.

+ Tháng 7: Lễ vía Đức Đại thế Chí Bồ Tát.

+ Ngày 15/7: Lễ Vu Lan báo hiếu.

+ Ngày 30/7: Lễ vía Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.

+ Ngày 19/9: Lễ vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát xuất gia.

+ Ngày 17/11: Lễ khánh đản Đức Phật A Di Đà.

+ Ngày 08/12: Lễ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hành đạo.

+ Các ngày lễ khác theo tín ngưỡng thờ Mẫu, giỗ tổ chùa…

Bên cạnh đó, những ngày tuần rằm, mùng một, hoạt động cúng lễ tại chùa vẫn diễn ra thường xuyên, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh và tín ngưỡng của nhân dân địa phương.

Từ những nét khái quát trên đây, có thể nhận thấy, chùa Quán Tình là một di sản kiến trúc - nghệ thuật có giá trị của cộng đồng sở tại cũng như của quận Long Biên. Việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích này hứa hẹn sẽ mang lại những đóng góp không nhỏ vào công cuộc xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong bối cảnh hiện nay./.

(Theo Hồ sơ xếp hạng di tích chùa Quán Tình - Tư liệu Ban Quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội).

Hình ảnh di tích chùa Quán Tình 

28 tháng 1 2019

trên mạng không có sao TAE

học

tốt

Chùa Quán Tình có tên chữ là “Thái Linh Quán tự” hay “Thái Linh tự” Chùa nằm phía bên trái của đình, ngay gần sát chân đê sông Đuống. Ngôi chùa vừa được tu sửa cùng với đình vào năm 2004. Chùa chính có kết cấu hình chữ đinh, toà Tiền đường có 5 gian 2 mái, xây theo kiểu tường hồi bít đốc. Phần Thượng điện được đựng theo dạng lầu bát giác, với 2 tầng 8 mái.

Hiện nay chúng ta vẫn chưa rõ chùa Quán Tình được xây dựng từ bao giờ, vì chưa có tư liệu nào nói đến việc khởi dựng. Chùa còn giữ được rất nhiều bia đá cổ, tấm bia hậu có niên đại sớm nhất lập năm Thịnh Đức thứ 3 (1655), trong đó có khắc bài thơ rất hay miêu tả cảnh đẹp của chùa và ghi danh những người công đức tiền, ruộng để tu sửa chùa. Đây là một tấm bia đá rất quý để nghiên cứu sự tồn tại của di tích chùa Quán Tình. Như vậy vào giữa thế kỷ XVII, chùa Quán Tình đã được tu sửa, mở rộng khuôn viên.

Văn bia lập năm Ất Mùi (1775) có ghi: “Nguyên xưa kia có bia chùa Thái Linh, triều trước lập dựng ngay gần sông, do nước xoáy lở mà bị thất lạc, nay cho sửa nền đất mà ghi lại các vật trong Tam bảo”. Như vậy, trong khoảng thời gian từ năm 1655 đến năm 1775, chùa Quán Tình có sự chuyển dịch đến vị trí hiện nay.

Hiện chùa còn lưu giữ một quả chuông đồng có niên đại Cảnh Thịnh thứ 8 (1800). Nội dung Bài minh trên chuông cho thấy toàn xã quan viên lớn nhỏ. cùng góp công của để đúc một quả chuông. Minh chuông còn khắc bài thơ ca ngợi cảnh đẹp của chốn thiền môn..

Ngoài các hiện vật nêu trên, chùa còn lưu giữ được 3 tấm bia hậu, 1 Thạch đài trụ (vẫn quen gọi là Cây hương đá) và hệ thống tượng Phật mang phong cách nghệ thuật Nguyễn (cuối thế kỷ XIX).

Qua hệ thống bia đá hiện còn tại chùa, nguồn tư liệu quý giá phần nào giúp chúng ta tìm hiểu về lịch sử làng xã những biến động không ngừng của dòng chảy Thiên Đức đã tạo cho một Quán Tình những bước thăng trầm. Mặt khác, chùa còn lưu giữ được quả chuông đã góp phần giúp chúng ta tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình và đúc đồng dưới thời Tây Sơn, đồng thời cũng góp phần vào việc nghiên cứu mỹ thuật cổ truyền đương thời.

Chùa Quán Tình, ngày nay đã được tu sửa để phục vụ sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong vùng.

29 tháng 1 2019

Bai tham khảo

Hai làng Tình Quang và Quán Tình tuy quy mô và thời điểm hình thành khác nhau nhưng mỗi làng đều có một ngôi chùa và một ngôi đình làm nơi hội họp, tế lễ, bàn bạc các công việc chung. Trước đây mỗi làng đều có khu Văn chỉ, nơi thờ đức Khổng Tử và dựng các văn bia ghi tên những người có học hành, đỗ đạt của làng. Làng Tình Quang trước đây có một số gia đình tự lập điện thờ Đức thánh Trần như nhà cụ Tranh, cụ Khiếu, cụ Điển Bẩy...

ĐÌNH QUÁN TÌNH

(PHƯỜNG GIANG BIÊN, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

Giang Biên, tức Vịa Đàm xưa, hiện là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, gồm hai làng Tình Quang và Quán Tình. Vào cuối thời Nguyễn, Tình Quang và Quán Tình là hai đơn vị hành chính độc lập, thuộc tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.

Làng Quán Tình có tên Nôm là Kẻ Tạnh. Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quang cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của mình với người dân nơi đây.

Nguyên ủy, làng Quán Tình nằm phía trong đê, làng có xóm trên, xóm dưới, đến năm 1956, các xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Ngoài ra, làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình. Trong làng có ba dòng họ chính, là: Vũ, Nguyễn, Trần. Quán Tình từng nổi tiếng với nghề trồng đay vặn võng.

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Giang Biên cùng cả nước đã giành được những chiến công oanh liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước, viết nên những trang sử truyền thống vẻ vang của địa phương và góp phần tô thắm thêm truyền thống vinh quang của Thủ đô. Bên cạnh đó, Giang Biên còn có truyền thống văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn xã, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII.

Đình Quán Tình thờ tướng quân Nguyễn Nộn, một nhân vật lịch sử cuối thời Lý - đầu thời Trần. Qua tư liệu lịch sử và truyền thuyết, sự tích của thần được ghi nhận như sau:

Nguyễn Nộn là người xã Phủ Dực (huyện Tiên Du) nay là xã Phù Đổng, Gia Lâm. Theo Đại Việt sử lược, ông là người có gương mặt đẹp, lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát. Phả hệ họ Nguyễn chép, ông là cháu 5 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc (thời nhà Đinh).

Hiện sử sách ghi chép về ông cũng khá sơ sài. Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều cho biết: Nguyễn Nộn vốn là một cư sĩ ở hương Phù Đồng. Tháng 8 năm 1218, ông bắt được vàng và ngọc mà không đem dâng vua Lý Huệ Tông, nên bị triều đình xuống chiếu bắt giam.

Tháng 2 năm 1219, quyền thần Trần Tự Khánh thấy ông là người có tài, bèn tâu với vua Huệ Tông xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua Huệ Tông chuẩn tấu. Tháng 10 năm đó, Tự Khánh sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai. Tháng 3 năm 1220, Nguyễn Nộn nhân cầm quân trong tay không trở về triều, trấn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua Huệ Tông sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song, vì vua có bệnh, không thể chế ngự được, trong khi họ Trần cũng đang mưu tính đoạt ngôi nhà lý nên chưa tính tới Nguyễn Nộn.

Đại Việt sử lược, cuốn sử ra đời vào thời Trần lại cho biết: Nguyễn Nộn vốn là bộ tướng của tướng Trần Tự Khánh, theo Tự Khánh tham gia vào những cuộc chinh chiến với các sứ quân và chống lại nhà Lý từ đầu thời Lý Huệ Tông chứ không phải tới năm 1218 ông mới xuất hiện trên chính trường. Cũng theo sách này, năm 1213, Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang mời ông (Nguyễn Nộn) về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng, giam cầm ông. Tuy nhiên, chưa rõ vì lý do gì mà Nguyễn Nộn bị Tự Khánh bắt giam.

Tháng 9, Trần Tự Khánh mở trói dây thép cho Nguyễn Nộn. Tuy ở trong cảnh ngục tù mà thần sắc Nguyễn Nộn vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Khi thấy bọn dũng sĩ nhảy, ông liền mang theo cả cái dây xích sắt mà nhảy và nhảy mạnh hơn bọn dũng sĩ. Trần Tự Khánh trông thấy, lấy làm lạ, bèn thả ông, cho làm tướng và đem người con gái của bà dì gả cho ông. Sau đó, Tự Khánh lại trao cho ông hai ấp là Trần Khê và Cả Lũ.

Năm 1213, Nguyễn Nộn cầm một cánh quân họ Trần chống lại quân triều đình do đích thân Lý Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông chỉ huy. Ông cùng các tướng họ Trần đánh bại quân nhà Lý. Em họ Trần Tự Khánh là Trần Thủ Độ cùng Trần Hiến Sâm ở tả ngạn tiến đánh thắng quân triều đình. Nguyễn Nộn từ Quốc Oai tiến đến chợ Dừa, cùng Phan Lân đánh thắng các tướng ở Hồng Châu là Đoàn Cấm, Vũ hốt. Lý Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu.

Sau trận này, ông được Trần Tự Khánh giao trấn giữ vùng Bắc Giang. Trần Tự Khánh lên Lạng Châu rước Huệ Tông không được, liền lập hoàng thân khác lên ngôi, tức là vua Càn Ninh.

Năm 1214, an hem họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc NInh), Nguyễn Nộn giết chết Đoàn Nguyễn, nhưng cũng bị thương ở lưng.

Tuy nhiên, lúc này nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Nhân thời cơ đó, Nguyễn Nộn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hỏa đốt kinh đô, rồi đưa vua mới là Càn Ninh xuống hành cung Lý Nhân (Hà Nam).

Nguyễn Nộn đem binh đến Thăng Long đánh nhau với Tự Khánh. Huệ Tông và Thái hậu khi đang trên đường từ Nam Sách trở về Thăng Long, phong cho Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay Nộn chống lại họ Trần. Từ đó, cục diện trong nước lúc này hình thành ba thế lực: Phía Bắc là Nguyễn Nộn, phía Đông là Đoàn Thượng, phía Nam là Trần Tự Khánh.

Tháng 1 năm 1215, hai tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai thông đồng với Nguyễn Nộn đánh Trần Tự Khánh, nhưng Đường và Giai lại hàng Trần Tự Khánh. Tháng 2, Nguyễn Nộn được phong tước vương. Tháng 3, Nguyễn Nộn đánh thắng Nguyễn Đường và Nguyễn Giai.

Sau đó, một loạt lực lượng cát cứ khác nổi dậy chiếm cứ các nơi. Sau nhiều lần bôn tẩu, cuối cùng, đến năm 1216, Lý Huệ Tông buộc phải dựa vào anh vợ là Trần Tự Khánh là lực lượng mạnh hơn cả. Tự Khánh lại phụng thờ Huệ Tông, mượn tiếng Huệ Tông để chinh phục được nhiều sứ quân khác. Huệ Tông hạ chiếu cho Nguyễn Nộn làm lính thường.

Kết cục của Nguyễn Nộn cũng được sử sách ghi chép không thống nhất. Các nguồn sử liệu khác nhau ghi chênh lệch về thời gian khá nhiều. Chỉ có một điểm chung duy nhất, là các nguồn sử sách đều xác nhận ông chết vì bệnh.

Theo Đại Việt sử lược, tháng 6 năm 1219, Trần Tự Khánh sai tướng Vương Lê đem binh về Nam Sách đánh Nguyễn Nộn. Quân hai bên giằng co, Trần Tự Khánh không thắng nổi quân của Nộn. Tháng chạp, Nguyễn Nộn bị bệnh nặng. Khi quân của Trần Tự Khánh đang đóng ở bến Triều Đông thì Nguyễn Nộn đã chết rồi. Ngày Canh Ngọ, tướng của Nộn là Phi Thám ra đầu hàng Trần Tự Khánh, có mang theo thái hậu và các công chúa (con vua Huệ Tông).

Như vậy, trong khi vua Huệ Tông trong tay Trần Tự Khánh thì có một bộ phận tôn thất nhà Lý lại trong tay Nguyễn Nộn.

Theo các sách sử khác, sau năm 1219, Nguyễn Nộn vẫn còn hoạt động. Năm 1220, trong khi các sứ quân khác bị dẹp thì Nguyễn nộn và Đoàn Thượng vẫn là hai sứ quân tồn tại chống lại triều đình (trong tay họ Trần).

Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, em ruột là Trần Thừa và em họ là Trần Thủ Độ lên thay nắm quyền điều hành việc triều đình. Thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh. Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu.

Năm 1225, Trần Thủ Độ chủ xướng việc nhà Trần thay nhà Lý và lo việc đánh dẹp. Tuy nhiên, bấy giờ Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, Trần Thủ Độ bèn phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn.

Tháng 12 năm 1228, Nguyễn Nộn đánh bại và giết chết Đoàn Thượng. Nhân đó, ông gộp cả quân của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Thanh thế của Nguyễn Nộn rất lẫy lừng. Trần Thủ Độ lo lắng, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương. Sau đó, Thủ Độ lại đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho ông để ngầm dò la tin tức. Biết ý Thủ Độ muốn dùng công chúa để lung lạc mình và dò la tin tức, ông cho nha tướng canh giữ chỗ ông ở. Vì thế, công chúa không thể báo được tin gì cho triều đình.

Tháng 3 năm 1229, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ham chơi buông thả, chè chén chơi bời bừa bãi. Tuy nhiên, ông cũng tự lượng sức, biết thế mình không thể cùng đối lập với nhà Trần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Cuối năm đó, ông ốm nặng, triều đình sai nội nhân tới hỏi thăm. Nguyễn Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khỏe mạnh, nhưng không bao lâu thì ông qua đời. Lực lượng của ông nhanh chóng tan rã        .

Như vậy, Đại Việt sử lược phản ánh hoạt động của Nguyễn Nộn từ năm 1213 tới 1219, còn “Toàn thư” và “Cương mục” nêu hành trạng của ông từ 1218 đến 1229.

Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, Nguyễn Nộn tham gia chính trường từ 1213 và theo Trần Tự Khánh như Đại Việt sử lược phản ánh. Tuy nhiên, các chuyên gia nghi ngờ về cái chết của ông (năm 1219). Theo nhóm ý kiến này, sau một trận thua quân Trần Tự Khánh, “vợ con Nguyễn Nộn đều bị bắt, Nguyễn Nộn mang theo 100 người về giữ Phù Ninh” và sau đó vẫn còn sống chứ không “ốm chết” như Đại Việt sử lược nêu. Ông tiếp tục tái lập lực lượng và giữ được Bắc Giang. Những sự kiện rong quãng đời sau đó của ông, như được gả công chúa Ngoạn Thiềm, giết được sứ quân Đoàn Thượng và xưng Hoài Vũ Đạo Vương như “Toàn thư” và “Cương mục” ghi. Ông ốm mất năm 1229.

Theo một số gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Nộn là cháu 5 đời của Nguyễn Bặc và là tổ của họ Nguyễn ở Gia Miêu (Tống Sơn - Thanh Hóa), là tổ tiên của chúa Nguyễn. Tuy nhiên, chính sử nhà Nguyễn không xác nhận điều này. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của chính nhà Nguyễn - hậu thế của các chúa Nguyễn - xác nhận, Nguyễn Nộn là “người làng Phù Minh, huyện Tiên Du” (nay là Phù Dực, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Như vậy, Nguyễn Nộn không phải người Tống Sơn - Thanh Hóa…

Tương truyền, sau khi Nguyễn Nộn mất, dân Quán Tình cùng các làng xã bên bờ Bắc sông Hồng đều lập miếu và tôn ông làm Thành hoàng làng, trải qua các triều vua đều gia phong mỹ tục.

Hiện nay, không có nguồn tư liệu nào ghi chép lại niên đại xây dựng đình Quán Tình. Sự thiếu vắng của nguồn tư liệu thành văn đã không cho phép xác định niên đại xây dựng của ngôi đình một cách chính xác.

Qua tìm hiểu lịch sử hình thành đình Quán Tình và sự tồn tại của ngôi đình trong quá trình lịch sử đến nay, để xác định niên đại của di tích, có thể dựa vào những tư liệu, hiện vật còn lại gắn với sự tồn tại và phát triển của ngôi đình.

Hiện di tích còn lưu giữ được 02 tấm bia, trong đó có bia dựng ngày mùng 1 tháng 1 năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779). Theo đó, bước đầu có thể đoán định, ngôi đình hiện nay ít nhất đã xuất hiện từ thế kỷ XVIII, trước năm (1779).

Trải qua thời gian dài tồn tại, đình Quán Tình đã được trùng tu nhiều lần. Trước kia, đình nằm ở vị trí dưới vườn, sau được làm lên ao miếu. Hiện di tích, còn lưu giữ được dòng lạc khoản trên nóc nhà hữu vu đề “Duy Tân Giáp Dần niên, trọng đông thụ trụ thượng lương đại cát” - Ngày tốt, tháng giữa Đông, năm Giáp Dần, niên hiệu Duy Tân (1914) cất nóc nhà hữu vu. Năm 1950, hậu cung của đình bị Pháp phá hủy. Hòa bình lập lại, di tích được sử dụng làm trường học. Các đồ thờ tự của đình phần lớn bị mất mát và hư hỏng. Năm Giáp Thân (2004), chính quyền và nhân dân địa phương trùng tu lại toàn bộ ngôi đình trên vị trí và khuôn viên cũ, quy mô giữ nguyên vẹn đến hiện nay.

Đình Quán Tình tọa lạc trên một khu đất rộng thoáng ven đê sông Đuống, phía trước có hồ nước rộng, giữa hồ có gò đất cao tạo cảnh quan đẹp, tiếp đến là nghi môn (gồm một cửa giữa và hai cửa tả, hữu), sau đến sân lễ hội và khu kiến trúc chính chiếm lĩnh vị trí trọng tâm.

Mở đầu di tích là nghi môn, được tạo kiểu tứ trụ. Đỉnh trụ là bốn chim phượng chụm đuôi vào nhau dưới dạng lá lật, bốn đầu phượng quay về bốn hướng tạo thành hình trái giành. Phía dưới tạo hình lồng đèn trang trí tứ linh (long, ly, quy, phượng). Phần thân của trụ biểu được tạo khung để đắp câu đối chữ Hán. Đế trụ thắt cổ bổng. Đỉnh của hai trụ phụ được trang trí hai tượng nghê trong tư thế chầu xuống. Phía dưới tạo hình mui luyện, lồng đèn, phần thân của trụ biểu cũng được bổ khung (để trơn không trang trí), đế trụ thắt cổ bồng. Phần nối tiếp giữa các cột trụ chính và cột phụ được làm hai cửa tả, hữu dưới dạng mái chồng diêm (hai tầng mái), đỉnh mái trang trí đề tài lưỡng long chầu nhật/nguyệt. Phần cổ diêm bổ khung hình chữ nhật đề ba chữ “Đình Quán Tình”. Hai bên cổng tả, hữu đắp nổi bức phù điêu quan giám sát.

Qua cổng là một lối đi rộng, hai bên trồng cau và các loại cây lưu niên để tạo cảnh quan. Tiếp theo, là một sân lễ hội rộng lát gạch đỏ, kích thước (30 x 30)cm. Qua bậc tam cấp lát đá xanh dẫn lên khu kiến trúc chính.

Đại đình được xây dựng trên một khu nên cao, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ “Đinh”, gồm tiền tế và hậu cung.

Tiền tế là một nếp nhà 5 gian, 2 chái, xây gạch, lợp ngói. Các góc mái được uốn cong vút, tạo cảm giác bay bổng cho toàn bộ kiến trúc. Chính giữa bờ nóc trang trí đề tài lưỡng long chậu nhật/nguyệt. Phía trước mở hệ thống cửa bức bàn kiểu thượng song hạ bản ở ba gian giữa, hai gian hồi làm hệ thống song gỗ. Hai bên tường hồi tả, hữu mở hai cửa sổ trang trí chữ “Thọ” nhằm tạo độ thoáng cho không gian bên trong.

Cấu trúc bộ khung gỗ khá vững chắc, với 6 bộ vì kèo được làm theo dạng thức “giá chiêng chồng rường con nhị”, tì lực trên 5 hàng chân cột. Các đầu bẩy phía sau ăn mộng vào cột lửng và gác trực tiếp trên tường hậu. Kết cấu vì gồm những con rường kê lên nhau qua những đấu vuông thót đáy, dày, cao. Các rường ngắn dần về phía thượng lương, để con rường cuối cùng đội thượng lương qua một đấu nhỏ được trang trí hình chữ Triện. Để tránh sự nặng nề cho bộ vì nóc và thỏa mãn nhu cầu mở rộng lòng nhà, các nghệ nhân đã thay con rường ở sát câu đầu bằng một đôi rường cụt. Kết cấu này vừa mang tính chất chồng rường, vừa mang tính chất giá chiêng. Song, chiếc cột trốn của giá chiêng được thay thế bằng con đường cụt để đội đầu rường trên. Toàn bộ hệ thống trên được đỡ bởi một quá giang to, khỏe, chạm khắc hoa văn thực vật, được ăn mộng vào đầu hai cột cái.

Hậu cung gồm 3 gian chạy dọc, nối với gian giữa tiền tế tạo thành kết cấu kiểu chữ “Đinh”. Các bộ vì được làm giống như ngoài tiền tế.

Ngoài kiến trúc chính, đình Quán Tình còn hai dãy tả, hữ vu, mỗi dãy 5 gian 2 dĩ, mái lợp ngói ta, nền lát gạch Bát, kích thước (30 x 30)cm.

Nhìn tổng thể, trang trí kiến trúc của đình vẫn bảo lưu được phong cách nghệ thuật dân gian truyền thống (thế kỷ XX), với những hình tượng gắn với cầu mùa, phát sinh, phát triển… - những ước vọng truyền đời của người nông dân.

Về không gian nội thất và thờ tự: gian giữa tiền tế bài trí một hương án cùng các đồ tế tự. Đây là nơi diễn ra các nghi lễ phụng thờ Thành hoàng làng. Hai bên bài trí chiêng và trống theo quan niệm “tả chinh, hữu cổ” (bên trái treo chiêng, bên phải treo trống). Hồi bên trái thờ hậu thần, hồi phải bài trí kiệu long đình. Các gian bên để trống, làm nơi hội họp mỗi khi có việc làng. Trong tòa hậu cung xây một bệ gạch cao, bên trên bài trí các đồ tế tự và 01 bộ long ngai Thành hoàng làng - “Phụng sự thần hoàng Nguyễn Nộn”. Trên các di vật của đình, như long ngai, bài vị, hạc thờ, kiệu… chủ yếu trang trí đề tài tứ linh. Đôi hạc thờ với chân cao, cổ cao, đường nét mềm mại uyển chuyển, được đặt trên lưng rùa mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX - XX.

Sau một thời gian gián đoạn, trong những năm gần đây, lễ hội Quán Tình đã được phục hội, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng và du khách thập phượng. Theo thông lệ, cứ 5 năm làng tổ chức hội lớn một lần, vào ngày mùng 7 - 8 tháng Hai để tưởng nhớ công đức của vị thần. Trong ngày chính hội, sau lễ khai mạc, dân làng tổ chức rước nước từ sông Đuống về đình. Đoàn rước xuất phát từ sân đình ngược lên đê sông Đuống, đến cầu Đuống để lấy nước. Sau khi lấy nước ở giữa sông Đuống, đoàn rước trở về đình, dân làng tổ chức tế thánh. Chủ tế thường là người cao niên có phẩm hàm hay đỗ đạt, thân nhân trong sạch, trai gái đề huề, nhà không vướng bụi (có tang)... Trong đòn tế còn có 4 quan viên bồi tế và những người chấp sự… Trước đây, làng chỉ có đội tế nam, hiện nay còn có thêm đội tế nữ.

Theo tục lệ, ban tổ chức lễ hội dành riêng ngày 7 tháng Hai  để dân làng và khách thập phương lễ thánh. Nhân dân háo hức, thành tâm sắm lễ mang ra đình, với mong ước một năm mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, nhà nhà no đủ...

Trong ngày chính hội, có cả ngàn người đến với lễ hội Quán Tình, tiếng trống đình, tiếng chuông chùa, tiếng nhạc của hội bát âm, tiếng phách sinh tiền đã tạo nên quang cảnh ngày hội làm nức lòng người. Ngoài những lễ nghi, trong hội còn những hoạt động văn hóa dân gian vô cùng đặc sắc, như đấu vật, bóng chuyền, đánh cờ, đan võng truyền thống.

Trong bối cảnh náo nhiệt của xu thế đô thị hóa hiện nay, sự tồn tại của đình Quán Tình cùng với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học liên quan đã góp phần làm phong phú thêm hệ thống di tích lịch sử - văn hóa trong khu vực và Thủ đô. Đó là một điểm sáng văn hóa cần được bảo vệ và phát huy giá trị phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong hiện tại và tương lai./.

CHÙA QUÁN TÌNH (THÁI LINH QUÁN TỰ)

(PHƯỜNG GIANG BIÊN, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

Chùa Quán Tình còn có tên gọi khác là “Thái Linh Quán tự” hay “Thái Linh quán”, nằm trên địa phận phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Cuối thời Lê Trung hưng, đầu thời Nguyễn, Quán Tình/Kẻ Tạnh là một xã thuộc tổng Đặng Xá huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (năm Minh Mạng thứ ba - 1822, đổi làm trấn Bắc Ninh, năm thứ 12 - 1831, đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Trong kháng chiến chống Pháp, Quán Tình thuộc xã Trường Chinh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Sau cải cách ruộng đất, xã Trường Chinh đổi tên thành Giang Biên…

Quán Tình, tức Kẻ Tạnh (vùng trời quang đất tạnh) - Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quanh cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân, trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của công chúa với nhân dân nơi đây.

Xưa kia, làng Quán Tình nằm phía trong đê, có xóm trên và xóm dưới. Đến năm 1956, xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình.

Đến tháng 5/1961, xã Giang Biên cùng các xã của huyện Gia Lâm được chuyển về Hà Nội. Từ cuối tháng 11 năm 2004, xã Giang Biên được chuyển thành phường Giang Biên, thuộc quận Long Biên. Quán Tình có 3 dòng họ chính là: họ Vũ, họ Nguyễn và họ Trần, từng nổi tiếng với nghề nghề trồng đay vặn võng. Cùng với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, dựng làng giữ nước, Giang Biên còn có truyền thống lịch sử - văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn phường, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII. Trong đó, có đình - chùa Quán Tình, một cụm di tích có lịch sử lâu đời, gắn liền với lịch sử phát triển của địa phương.

Quán Tình nằm ở ven sông Đuống, có bãi bờ màu mỡ, một điều kiện rất thuận lợi để dân làng canh tác hoa màu và trồng dâu nuôi tằm. Một số người dân trong làng từng buôn bán tre, gỗ - từ sông Đuống, theo sông Hồng, lên các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc.

Sống ven sông Đuống, giữa một vùng chịu nhiều tác động của thiên nhiên và xã hội, nên người Quán Tình có bản tính cứng cỏi, đủ sức chống chọi với thiên tai khắc nghiệt. Dưới thời quân chủ, làng có rất nhiều người theo nghiệp võ. Cuối thế kỷ XVIII, làng nổi lên với Vũ Văn Khuê, một viên quan võ, làm Tham Đốc Tứ thành, vào năm Đinh Mùi đời Chiêu Thống (1787), đã chiêu binh chống lại quân Tây Sơn, sau bị bắt và giết. Hai con của ông là Vũ Tuân và Vũ Hoan theo Chiêu Thống sang tận Yên Kinh (Trung Quốc) rồi chết ở đó. Làng thờ Hoài Đạo cư sĩ, vừa là một Nho sĩ, vừa là một Đạo sĩ, rất giỏi kiếm thuật, từng ở chùa Sùng Khánh (làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, nay thuộc huyện Gia Lâm). Vào đời vua Lý Huệ Tông (1211 - 1224), đất nước lâm vào cảnh loạn lạc, dưới đồng bằng, giặc cướp nổi lên như ong, vùng biên cương giặc Man gây nhiễu, triều đình không thể dẹp yên được. Các quan trong triều đã tiến cử Hoài Đạo cư sĩ. Ông đã nhận lệnh lên đường dẹp loạn. Khi Trần Thủ Độ mưu toan soán ngôi nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi để lập ra nhà Trần, với tư tưởng trung quân, Hoài Đạo cư sĩ đã dấy quân chiếm cứ vùng Bắc Ninh - Bắc Giang, tự xưng là Hoài Đạo Vương, liên kết cùng Đoàn Thượng chống lại. Thủ Độ đem quân trấn dẹp nhưng không được, phải giảng hòa, rồi dùng kế ly tán để Hoài Đạo cư sĩ chống lại và đánh tan thế lực của Đoàn Thượng. Với thanh thế lẫy lừng, Hoài Đạo cư sĩ tự xung là Đại Thắng Vương. Thủ Độ lo sợ, phải xin vua Trần phong cho Hoài Đạo cư sĩ làm Hoài Đạo Hiếu Vũ vương, lại gả cho công chúa Ngoạn Thiền. Sau đó, Hoài Đạo đã cùng công chúa lập tư dinh ở xã Ninh Giang (nay là đất Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm), cùng chung sống đến cuối đời. Sau khi ông mất, được an tang tại xứ đồng Mạc, làng Phù Dực (nay thuộc xã Phù Đổng). Nhiều làng ven sông Đuống tôn thờ Hoài Đạo làm Phúc thần, tế lễ long trọng vào ngày mồng Một tháng Ba, tức ngày hóa của ông.

Có lẽ, từ xa xưa, làng Quán Tình đã có Đạo quán (Thái Linh quán), sau được chuyển hóa thành chùa - Thái Linh Quán tự. Tấm bia khắc năm Thịnh Đức thứ ba (1655) cho biết, Thái Linh Quán tự là cổ tích danh lam, triều trước dựng ở gần sông, sau bị trôi mất, nay phải dựng lại, do công của Chánh Vương phủ nội cung tần cung tiến của tiền.

Chùa quay hướng Đông Nam, gồm các hạng mục chính: cổng, sân, tiền đường, thượng điện, điện Mẫu, nhà tăng, nhà bia, tháp mộ,…

Cổng chùa là một kiến trúc xây bằng gạch, với ba cửa ra vào, có mái che. Bên trên ghi bốn chữ “Thái Linh Quán tự”. Qua cổng là một sân rộng lát gạch Giếng Đáy màu đỏ, có kích thước (30 x 30) cm. Sát hiên tiền đường đặt một lư hương đá, hai bên đặt 2 tượng sư tử hý cầu bằng chất liệu đá. Phía trước là một ao rộng, quanh sân là khu vườn chùa, trồng nhiều loại cây lưu niên, tạo cảnh quan bóng mát.

Tiền đường gồm 5 gian hai dĩ, xây gạch, được kết cấu theo dạng chồng diêm, hai tầng tám mái, lợp ngói ta, với các hệ thống trấn song con tiện bằng gỗ. Phía trước là một khoảng hiên rộng khoảng 1,6m, với 9 hàng chân cột bằng đá, hình trụ tròn, với mặt trước khắc câu đối bằng chữ Hán, bẩy hiên trang trí hình rồng lá, sư tử vờn cầu. Mặt trước tiền đường có hệ thống cửa bức bàn kiểu “thượng song hạ bản”, phía dưới trang trí hoa sen, bên trên là chữ Phúc, hoa văn hình học, cuốn thư. Phần nền tiền đường được tôn cao hơn mặt sân, với chín bậc lên xuống, bằng chất liệu đá. Hành lang xung được cấu trúc theo dạng tường lửng, có các cột trụ đỡ mái tạo sự chắc, khỏe cho kiến trúc, phía dưới các chân cột đá tạo tác hình hoa sen cách điệu. Bộ khung kiến trúc liên kết với nhau bằng các bộ vì kèo được làm theo dạng thức giá chiêng chồng rường con nhị, hạ cốn mê, bẩy hiên, tì lực trên 4 hàng chân, gồm 2 hàng cột cái và một hàng cột hiên. Các bộ vì cột trốn tì lực lên hệ thống tường hậu phía sau. Phía trước, tiếp giáp với tường hồi là cột đồng trụ, bên trên đắp hình bốn con phượng, trong tư thế chụm đầu vào nhau, tạo hình trái giành. Phía dưới là các ô lồng đèn, bốn phía đắp đề tài “tứ linh”. Thân trụ bổ ô đắp câu đối chữ Hán. Tiền đường là nơi bài trí tượng Đức Ông, Thánh Tăng, Hộ pháp (Khuyến Thiện, Trừng Ác). Các tượng này đều được đặt trên ban thờ cùng với hệ thống các đồ thờ khác, như bát hương, mâm bồng, lọ hoa, chân đèn…

Thượng điện gồm 1 gian 2 dĩ, nối liền với gian giữa nhà tiền đường, với phần trong cùng được làm theo kiểu bát giác. Chính giữa xây bậc bên trên đặt 5 lớp tượng, gồm: Tam thế Phật; Di Đà Tam tôn; Hoa Nghiêm Tam Thánh; Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn; Phật A Di Đà (bằng đá xanh, cao khoảng 1,7m).

Các gian trong thượng điện đều treo cửa võng, trang trí bánh xe pháp luân và hoa cúc, bên dưới treo câu đối. Phía ngoài cùng, sát với gian tiền đường là tòa cửu long và tượng Thích Ca sơ sinh.

Điện Mẫu nằm bên cạnh chùa chính, mới được nhân dân tu bổ và tôn tạo. Chính giữa điện thờ là tượng đức Thánh Trần Hưng Đạo, vị tướng có công lớn trong sự nghiệp đánh giặc Nguyên - Mông bảo vệ xã tắc, phía dưới là Tam tòa Thánh Mẫu. Đây là một hình thức tín ngưỡng dân dã gắn Mẫu với chức năng tạo thiên, lập địa để mang tư cách như một anh hùng văn hóa của dân tộc…

Nhà Tăng ở phía sau, bên trái Tam bảo, được dựng năm 2005, gồm 5 gian tường hồi bít đốc. Nhà bia dược dựng trong thời kỳ hòa bình lập lại để làm nơi thờ Phật tạm thời. Sau khi tu bôt Tam bảo thì kiến trúc này được chuyển thành nhà bia. Khu vườn tháp ở phía sau điện Mẫu.

Ngoài giá trị về mặt kiến trúc - nghệ thuật, chùa Quán Tình còn lưu giữ được hệ thống văn bia, chuông, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX, cùng một số đồ thờ tự khác. Dây là những di vật có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học, đồng thời còn là những di vật quý trong kho tàng di sản văn hóa nước ta, giúp cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu về sự phát triển, hình thành của cư dân làng xã, góp phần quan trọng vào việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc.

Các hoạt động văn hóa, lễ hội luôn là một phần không thể thiếu trong mỗi di tích và góp phần không nhỏ vào việc duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy giá trị di tích, đưa đạo pháp đến với con người. Ngoài chức năng là nơi tu tập, hằng năm chùa Quán Tình còn tổ chức các lễ tiết sau (tính theo lịch Âm):

+ Ngày 15/1: Lễ Thượng nguyên.

+ Ngày 08/2: Lễ vía Đức Phật Thích Ca xuất gia đi tu.

+ Ngày 15/2: Lễ vía Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn.

+ Ngày 19/2: Lễ vía Bồ Tát Quan Âm.

+ Ngày 21/2: Lễ vía Bồ Tát Phổ Hiền.

+ Ngày 16/3: Lễ vía Đức Quan Âm chuẩn đề.

+ Ngày 04/4: Lễ vía Bồ tát.

+ Ngày 15/4: Lễ vía Đức Phật Thích Ca đản sinh (lễ Phật đản).

+ Tháng 6: Lễ vía Đức Bồ Tát Quan Âm thành đạo.

+ Tháng 7: Lễ vía Đức Đại thế Chí Bồ Tát.

+ Ngày 15/7: Lễ Vu Lan báo hiếu.

+ Ngày 30/7: Lễ vía Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.

+ Ngày 19/9: Lễ vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát xuất gia.

+ Ngày 17/11: Lễ khánh đản Đức Phật A Di Đà.

+ Ngày 08/12: Lễ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hành đạo.

+ Các ngày lễ khác theo tín ngưỡng thờ Mẫu, giỗ tổ chùa…

Bên cạnh đó, những ngày tuần rằm, mùng một, hoạt động cúng lễ tại chùa vẫn diễn ra thường xuyên, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh và tín ngưỡng của nhân dân địa phương.

Từ những nét khái quát trên đây, có thể nhận thấy, chùa Quán Tình là một di sản kiến trúc - nghệ thuật có giá trị của cộng đồng sở tại cũng như của quận Long Biên. Việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích này hứa hẹn sẽ mang lại những đóng góp không nhỏ vào công cuộc xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong bối cảnh hiện nay./.

28 tháng 1 2019

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc được sáng tác theo phong cách hiện thực, phản ánh cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng. Cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy vậy, họ có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Họ quyết liệt phản kháng hoặc thậm chí dám chọn cái chết để giữ gìn phẩm chất trong sạch của mình. Điều đó cho thấy: người nông dân trong xã hội cũ tiềm tàng một sức mạnh của tình cảm, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.

29 tháng 1 2019

Qua đoạn trích tức nước vỡ bờ (trích tắt đèn của Ngô Tất Tố ) và truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao ta thấy hiện lên một bức tranh về những người nông dân sống trong trong xã hội thưc dân nửa phong kiến . Họ là những con người lao động nghèo khổ , bị đẩy vào con đường bế tắc nhưng vẫn ngời sáng lên những phẩm chất tốt đẹp.
Trước hết , hai tác phẩm đã tái hiện cho người đọc cho thấy tình cảnh nghèo khổ , bắc tế của người nông dân bần cùng trong xã hội một cổ hai tròng áp bức . Chị Dậu nghèo thuộc hàng cùng đinh nhất nhì trong làng . gia cảnh đã nghèo lại phải đóng sưu cho cả người em trai đã chết từ năm ngoái khiến cho gia cảnh đã nghèo lại càng nhèo hơn . cái xã hội ấy đâu còn nhân tính , chỉ biết dồn con người vào chỗ chết , vào đường cùng chỉ biết bóc lột họ đến chết vẫn không tha .Còn lão Hạc cũng có hơn gì chị Dậu . sau đợt ốm số tiền dành dụm của Lão cũng tiêu hết làng mất mùa nên cả củ chuối , rau má sung luộc ... kiếm được gì , Lão ăn nấy . lão không muốn tiêu vào tiền của con . Và đến lúc , lão không còn đủ khả năng để nuôi nổi mình nữa , lão đành phải bán chó . cuộc sống của người nông dân nghèo trong xã hội lúc bấy giờ thật bế tắc . Để kiếm được miếng ăn nuôi sống mình qua ngày đâu có gì dễ dàng gì
cuộc sống tuy nghèo khổ là thế nhưng vẻ đẹp tâm hồn của họ luôn ngời sáng . họ điều là những con người hết lòng tận tụy hi sinh vì người thân . chị dậu là mọt người phụ nữ hiền hậu nhưng hết mực thương chồng , thương con . khi anh dậu dở chết dở sống được khiêng về nhà , chị hết sức chăm lo cho chồng . chị nhẹ nhàng bưng bát cháo đến bên chồng , động viên chồng "thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ sót ruột". trước tấm lòng của người vợ ,anh dậu cũng cố gắng ngồi dậy . nhưng lính đã rầm rầm xông vào , lo sợ , chị dậu đã ra sức van nài mong chúng để cho chồng chị ăn hết bát cháo . chị đã cúi mình xin chúng , ra sức giãi bày cho chúng hiểu , mong chúng động lòng thương . chị đã xưng cháu . chị đã tự hạ mình để nâng chúng lên . nhưng mặc chị van xin chúng vẫn quyết trói anh dậu , chị dã đứng lên ngang hàng với chúng khi xưng tôi -ông . và cuối cùng chị đã đe dọa , thách thức chúng :"mày trói chồng bà đi bà cho mày xem 'chị đã nâng mình lên đứng trên chúng .chị đã lấy đâu ra sức mạnh đó ?đó chính là lòng yêu thương chồng ,chị sẵn sàng đối đầu với bọn tay sai nhà ông Lý -đại diện cho bộ máy chính quyền . lúc này trong chị chỉ còn quyết tâm bảo vệ chồng đang thôi thúc ,nó tạo thành sức mạnh ,tiếp thêm cho chị lòng dũng cảm để chị đánh ngã cả hai tên tay sai .
còn lão hạc lại là lòng thương con , hết lòng vì con . lão yêu thương cậu vàng như đứa con của mình vì cậu vàng chính là kỉ vật của đứa con trai trước khi bỏ nhà đi đồn điền cao su . lão vẫn luôn day dứt khi không lo đủ được tiền cưới vợ cho con . và trong lòng người cha già vẫn luôn mong có ngày người con trai trở về ,lão cố gắng dành dụm tiền cho con lão giữ cho con mảnh vườn . 
tóm lại cả hai tác phẩm điều làm bật lên hình ảnh người nông dân Việt Nam tuy nghèo khổ nhưng luôn giữ cho tâm hồn mình trong sáng . nếu như chị dậu có sức mạnh phản kháng dám đứng lên chống lại cường quyền để bảo vệ chồng thì lão hạc lại là người nông dân đôn hậu giàu lòng tự trọng -hai con người , hai nhân cách để đáng chúng ta khâm phục

28 tháng 1 2019

I. MỞ BÀI:

– Giới thiệu chiếc cặp sách là người bạn đồng hành lâu dài với lứa tuổi học trò trong suốt thời gian cắp sách đến trường.

II. THÂN BÀI:

1. Nguồn gốc, xuất xứ:

– Xuất xứ: Vào năm 1988, nước Mỹ lần đầu tiên sản xuất ra chiếc cặp sách mang phong cách cổ điển.

– Từ sau 1988, cặp sách đã được sử dụng phổ biến nhiều nơi ở Mỹ và sau đó lan rộng ra khắp thế giới.

2. Cấu tạo:

– Chiếc cặp có cấu tạo rất đơn giản.

+ Phía ngoài: Chỉ có mặt cặp, quai xách, nắp mở, một số cặp có quai đeo,.

+ Bên trong: Có nhiều ngăn để đựng sách vở, bút viết, một số cặp còn có ngăn để đựng áo mưa hoặc chai nước,.

3. Quy trình làm ra chiếc cặp:

– Có nhiều loại cặp sách khác nhau như: Cặp táp, cặp da, ba-lô. Với nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như: Của Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc: Tian Ling, Ling Hao, mang những phong cách thiết kế riêng biệt. Tuy nhiên cách làm chúng đều có phần giống nhau.

+ Lựa chọn chất liệu: Vải nỉ, vải bố, da cá sấu, vải da,.

+ Xử lý: Tái chế lại chất liệu để sử dụng được lâu dài, bớt mùi nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng của chất liệu đó.

+ Khâu may: Thông thường các xí nghiệp sử dụng máy may để may từng phần của chiếc cặp lại với nhau theo thiết kế.

+ Ghép nối: Ghép các phần đã được may thành một chiếc cặp hoàn chỉnh rồi được tung ra thị trường với những giá cả khác nhau.

4. Cách sử dụng:

– Tùy theo từng đối tượng mà con người có những cách sử dụng cặp khác nhau:

+ Học sinh nữ: Dùng tay xách cặp hoặc ôm cặp vào người.

=> Thể hiện sự dịu dàng, thùy mị, nữ tính.

+ Học sinh nam: Đeo chéo sang một bên

= > Thể hiện sự khí phách, hiêng ngang, nam tính.

Nam sinh viên Đại học

Đeo cặp một bên thể hiện sự tự tin và năng động

+ Học sinh tiểu học: Đeo sau lưng để dễ chạy nhảy, chơi đùa cùng đám bạn.

=> Thể hiện sự nhí nhảnh, ngây thơ của lứa tuổi cấp 1.

Các nhà doanh nhân: Sử dụng các loại cặp đắt tiền, xịn, thường thì họ xách trên tay.

=> Thể hiện họ thật sự là những nhà doanh nhân thành đạt và có được nhiều thành công cũng như sự giúp ích của họ dành cho đất nước.

– Nhìn chung, khi mang cặp cần lưu ý không nên mang cặp quá nặng, thường xuyên thay đổi tay xách và vai đeo.

5. Cách bảo quản:

– Học sinh chúng ta thường khi đi học về thì quăng cặp lên trên cặp một cách vô lương tâm khiến cặp dễ bị rách hay hư hao. Nên bảo quản cặp bằng những phương pháp sau đây để giữ cho cặp bền tốt và sử dụng được lâu:

+ Thường xuyên lau chùi hoặc giặt cặp để giữ độ mới của cặp.

+ Không quăng cặp hay mạnh tay để tránh làm rách cặp hay hư hao.

+ Cứ khoảng 1 – 2 lần mỗi năm, hãy làm mới cặp bằng xi đánh giày không màu.

+ Để sửa chữa cặp khi bị rách, đừng nên mang đến hàng sửa giày hay giặt khô vì như vậy sẽ có nguy cơ bị hỏng do dùng sai công cụ. Hãy đưa đến thợ sửa cặp chuyên nghiệp.

+ Đừng bao giờ cất cặp da trong túi nilon, nó có thể làm khô túi hoặc bị chất dẻo dính vào da.

+ Thường xuyên nhét giấy vụn hoặc áo phông cũ vào cặp để giữ hình dáng.

+ Đặt cặp trong túi nỉ của cửa hàng hoặc vỏ gối để giữ khả năng đứng thăng bằng của cặp.

6. Công dụng:

– Cặp là vật để chúng ta đựng sách vở, bút viết mỗi khi đến trường.

– Cặp cũng là vật để che nắng, che mưa cho sách vở. Một số bạn cũng sử dụng cặp để che mưa cho chính bản thân.

– Cặp cũng là vật đã để lại không biết bao nhiêu kỷ niệm vui, buồn, đồng thời cũng tô lên nét đẹp của tuổi học trò – cái tuổi đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.

III. KẾT BÀI:

– Cùng với những vật dụng tiện lợi khác, chiếc cặp sách đã trở thành một người bạn trung thành và luôn đồng hành với mỗi con người, đặc biệt là đối với những học sinh – chủ nhân tương lai của đất nước Việt Nam.

28 tháng 1 2019

I. Thân bài: thuyết minh về cái cặp sách
1. Khái quát về cái cặp sách
- Là dụng cụ học tập cho mỗi học sinh
- Dùng để đựng sách vở, bút thước
- Mang trên vai mỗi khi đến trường
2. Chi tiết về cái cặp sách
a. Cấu tạo của cái cặp sách
- 2 ngăm: 1 ngăn nhỏ, 1 ngăn to, ngăn nhỏ đựng bút thước, ngăn lớn đựng sách vở
- Có quai đeo hai bên
- Mỗi chiếc cặp có một cách trang trí khác nhau
b. Công dụng của (cái cặp sách
- Đựng sách vở
- Đựng dụng cụ học tập
- Bỏ những thứ cần thiết về học tập
c. Ưu điểm của chiếc cặp sách
- Gọn nhẹ
- Dễ dử dụng
- Phù hợp với mọi lứa tuổi
- Tiện dụng cho học sinh mỗi khi đến trường
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về chiếc cặp sách
Ví dụ:
Chiếc cặp sách là một dụng cụ học tập rất tiện lợi, có ý nghĩa với nhiều học sinh. Nhờ cái cặp sách mà em đã đến trường rất tiện lợi. đây là một dụng cụ học tập không thể thiếu với mỗi học sinh. Em rất yêu cái cặp sách của em.
Trên đây là Hướng dẫn lập dàn ý đề bài “Thuyết minh về cái cặp sách” chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn. hi vọng qua bài lập dàn ý bạn đã có được những sự tham khảo để làm văn tốt hơn. Chúc các bạn thành công, học tập tốt.
 

28 tháng 1 2019

Trong cuộc sống xung quanh chúng ta, có một vật dụng mà chúng ta sử dụng hằng ngày nhưng lại không để ý nhiều đến nó. Đó chính là cây bút bi. Hôm nay, tòi sẽ giới thiệu với các bạn vật dụng này.

Chúng ta đều mua và sử dụng bút bi như thế nhưng ít ai biết được nguồn gốc, xuất xứ của nó. Người xin cấp bằng sáng chế bút bi đầu tiên trên thế giới là một người thợ thuộc da người Mĩ tên là John Loud vào năm 1888 nhưng không được khai thác thương mại. Mãi cho đến năm 1938, một biên tập viên người Hungari tên là Laszlo Biro vì quá chán nản với việc sử dụng bút mực nên ông đã sáng chế ra cây bút bi viết bằng mực in báo khô nhanh và ngày 15 tháng 6, ông được cấp bằng sáng chế của Anh Quốc. Từ khi ra đời đến nay, bút bi không ngừng được cải tiến để phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Với các thương hiệu nổi tiếng như “Ba”, “Hoover", “Xeros” và đặc biệt là thương hiệu “Bic Cristal”. Từ năm 1940. ngày sinh nhật của Biro ngày 29 tháng 9 đã trở thành ngày của những nhà phát minh ra bút bi. Bây giờ thì các bạn đã biết ai là người phát minh ra bút bi và được ra đời vào năm nào rồi chứ?

Để hiểu rõ hơn về bút bi, tôi sẽ nói qua về cấu tạo của nó. Nếu cây bút bi của bạn tháo ra được, bạn sẽ thấy được bên trong có một ống ruột. Trong ống ruột có một đoạn mực đặc. Phần dưới đầu bút có một viên bi rất nhỏ, chỉ từ không phẩy bảy đến một mi-li-mét. Viên bi này chuyển động lăn giúp mực in lên giấy khô và nhanh. Bút bi có rất nhiều loại khác nhau, có loại làm bằng nhựa cứng, có loại làm bằng kim loại màu,...và nhiều nguyên liệu khác. Loại làm bàng nhựa cứng thường được dùng một lần, đến hết mực rồi bỏ. Còn loại kim loại màu có giá thành cao hơn nhưng lại được thay mực và sử dụng lại nhiều lần. Nắp bút hi cùng rất đa dạng. Có dạng nắp rời ra, khi dùng tháo nắp gắn lên đầu, dùng xong đậy lại. Còn dạng nắp gắn liền với thân, khi dùng bấm nút để đẩy ngòi bút ra, không dùng bấm nút đẩy ngòi ngược vào trong. Bên cạnh đó, bút bi còn có rất nhiều kiểu khác, như là nắp bút xoay,...

Mỗi năm, vào dịp chuẩn bị cho năm học mới, các hãng sản xuất bút bi ớ Việt Nam như “Thiên Long”, “Bến Nghé" lại đưa ra nhiều mẫu mã mới từ đơn giản đến cầu kì để đáp ứng cho người tiêu dùng.

Muốn sử dụng bút bi bền lâu, ta cần phải biết cách sử dụng và bảo quản bút bi. Khi viết, chúng ta phải để bút hơi nghiêng từ 40 đến 60°, đặc biệt tránh vừa nằm vừa viết. Khi dùng xong, cần phải đậy nắp lại ngay để tránh bút rớt làm hư đầu bi. Vì đầu bi là bộ phần quan trọng nhất của bút nên nếu hư đầu bi thì bút sẽ không dùng được. Phải để bút luôn nằm ngang để mực luôn lưu thông trong ống. Tôi sẽ chỉ cho các bạn một mẹo nhỏ để sử dụng bút bi. Khi để bút lâu không dùng mực trong ống sẽ bị khô, đừng vội bỏ cây bút mà hãy bỏ bút vào một lượng nước nóng vừa phải ngâm từ mười đến mười lăm phút. Cây bút của bạn sẽ được phục hồi.

Như chúng ta đều biết, bút bi đã đi vào cuộc sống của ta một cách quen thuộc. Nó vừa rẻ tiền lại vừa tiện dụng. Chúng ta có thế thấy nó nằm ở trên bàn, trong túi hay trong xe hơi,... Những nơi nào cần viết sẽ có sự hiện diện của bút bi. Ngoài ra. bút bi còn được dùng tặng miễn phí như một dạng quảng cáo. Gần đây, còn xuất hiện hình xăm bằng bút bi,...

Ý nghĩa của cây bút bi rất quan trọng đối với học sinh chúng ta, chúng ta dường như sử dụng nó mỗi ngày. Bút bi là một vật vô tri, nó không những tạo ra những con chữ đầy ý nghĩa mà còn, nếu chúng ta sử dụng một cách chuyên cần, bút bi sẽ tạo ra những bài văn hay, những trang viết đẹp. Để trở thành người chủ "tài hoa" của bút bi, học sinh chúng ta cần phải giữ vở sạch, rèn luyện chữ đẹp, trao đổi kiến thức. Hãy biến bút bi - cây bút vô tri của bạn trở thành một công dụng cần thiết, một trợ thủ đắc lực trong công việc học tập bạn nhé!



 

28 tháng 1 2019

DÀN Ý CHI TIẾT

I. MỞ BÀI

Giới thiệu: Một vật dụng nhỏ gọn, tiện ích cho học sinh, sinh viên ngày nay mà -chúng ta thường nhắc đến đó chính là cây bút bi.

II. THÂN BÀI

1.      Nguồn gốc, xuất xứ

-    Người xin cấp bằng sáng chế bút bi đầu tiên trên thế giới là một người thợ thuộc da người Mĩ tên là John Loud vào năm 1888 nhưng không được khai thác thương mại Mãi cho đến năm 1938, một biên tập viên người Hungari tên là László Biro vì quá chán nản với việc sử dụng bút mực nên ông đã sáng chế ra cây bút bi viết bằng mực in báo khô nhanh và ngày 15 tháng 6, ông được cấp bằng sáng chế tại Anh Quốc.

-    Từ năm 1940, ngày sinh nhật của Biro ngày 29 tháng 9 đã trở thành ngày của những nhà phát minh ra bút bi.

2.     Cấu tạo

-     Bên ngoài bút là thân bút với một ống nhựa cứng, trên thân bút thường in hàng sản xuất, trang trí nhiều màu sắc bắt mắt.

-     Hình dạng rất phong phú, đa dạng.

-     Tháo bút ra, chúng ta sẽ thấy bên trong có một ống ruột.

-     Trong ống ruột có đoạn mực đặc. Phần dưới đầu hút có một viên bi rất nhỏ, chỉ từ không phẩy bảy đến một mi-li-mét. Viên bi này chuyển động lăn giúp mực in lên giấy khô và nhanh. Bút bi có rất nhiều loại khác nhau, có loại làm bằng nhựa cứng, có loại làm bằng kim loại màu,... và nhiều nguyên liệu khác.

-     Loại làm bằng nhựa cứng thường được dùng một lần, đến hết mực rồi bỏ.

-     Nắp bút bi cùng rất đa dạng. Có dạng nắp rời ra, khi dùng tháo nắp gắn lên đầu, dùng xong đậy lại. Còn dạng nắp gắn liền với thân, khi dùng bấm nút để đẩy ngòi bút ra, không dùng bấm nút đẩy ngòi ngược vào trong.

3.     Cách sử dụng và bảo quản

-     Khi viết, chúng ta phải để bút hơi nghiêng từ 40° đến 60°, đặc biệt tránh vừa nằm vừa viết.

-     Khi dùng xong, cần phải đậy nắp lại ngay để tránh bút rớt làm hư đâu bi. Vì đầu bút bi là bộ phần quan trọng nhất của bút nên nếu hư đầu bi thì bút sẽ không dùng được. Phải để bút luôn nằm ngang để mực luôn lưu thông trong ống.

4.     Ý nghĩa

Khi để bút lâu không dùng mực trong ống sẽ bị khô, đừng vội bỏ cây bút mà hãy bỏ bút vào một lượng nước nóng vừa phải ngâm từ mười đèn mười lăm phút. Cây bút của bạn sẽ được phục hồi.

-     Chúng ta có thể thấy nó nằm ở trên bàn, trong túi hay trong xe hơi...Những nơi nào cần viết sẽ có sự hiện diện của bút bi.

-     Nó vừa rẻ tiền lại vừa tiện dụng. Tùy theo hãng sản xuất mà có những giá cả khác nhau, trung bình từ khoảng 3.000đ trở lên. Còn các hãng sản xuất nước ngoài như: Waterman, Paker,...thì giá một cây bút bi dao động hàng trăm USD trở lên.

-     Bút bi còn được dùng tặng miễn phí như một dạng quảng cáo.

III. KẾT BÀI

-     Bút bi luôn giữ vai trò quan trong trong cuộc sống mọi người và đặc biệt đối với học sinh như chúng ta thì nó là một người bạn thân thiết trên con đường học vấn.

-     Vì vậy là một học sinh, chúng ta cần phải biết nâng niu và trân trọng bút để xứng đáng là người chủ “tài hoa” của nó.

BÀI VẦN THAM KHẢO

BÀI VĂN 1

Trong cuộc sống xung quanh chúng ta, có một vật dụng mà chúng ta sử dụng hằng ngày nhưng lại không để ý nhiều đến nó. Đó chính là cây bút bi. Hôm nay, tòi sẽ giới thiệu với các bạn vật dụng này.

Chúng ta đều mua và sử dụng bút bi như thế nhưng ít ai biết được nguồn gốc, xuất xứ của nó. Người xin cấp bằng sáng chế bút bi đầu tiên trên thế giới là một người thợ thuộc da người Mĩ tên là John Loud vào năm 1888 nhưng không được khai thác thương mại. Mãi cho đến năm 1938, một biên tập viên người Hungari tên là Laszlo Biro vì quá chán nản với việc sử dụng bút mực nên ông đã sáng chế ra cây bút bi viết bằng mực in báo khô nhanh và ngày 15 tháng 6, ông được cấp bằng sáng chế của Anh Quốc. Từ khi ra đời đến nay, bút bi không ngừng được cải tiến để phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Với các thương hiệu nổi tiếng như “Ba”, “Hoover", “Xeros” và đặc biệt là thương hiệu “Bic Cristal”. Từ năm 1940. ngày sinh nhật của Biro ngày 29 tháng 9 đã trở thành ngày của những nhà phát minh ra bút bi. Bây giờ thì các bạn đã biết ai là người phát minh ra bút bi và được ra đời vào năm nào rồi chứ?

Để hiểu rõ hơn về bút bi, tôi sẽ nói qua về cấu tạo của nó. Nếu cây bút bi của bạn tháo ra được, bạn sẽ thấy được bên trong có một ống ruột. Trong ống ruột có một đoạn mực đặc. Phần dưới đầu bút có một viên bi rất nhỏ, chỉ từ không phẩy bảy đến một mi-li-mét. Viên bi này chuyển động lăn giúp mực in lên giấy khô và nhanh. Bút bi có rất nhiều loại khác nhau, có loại làm bằng nhựa cứng, có loại làm bằng kim loại màu,...và nhiều nguyên liệu khác. Loại làm bàng nhựa cứng thường được dùng một lần, đến hết mực rồi bỏ. Còn loại kim loại màu có giá thành cao hơn nhưng lại được thay mực và sử dụng lại nhiều lần. Nắp bút hi cùng rất đa dạng. Có dạng nắp rời ra, khi dùng tháo nắp gắn lên đầu, dùng xong đậy lại. Còn dạng nắp gắn liền với thân, khi dùng bấm nút để đẩy ngòi bút ra, không dùng bấm nút đẩy ngòi ngược vào trong. Bên cạnh đó, bút bi còn có rất nhiều kiểu khác, như là nắp bút xoay,...

Mỗi năm, vào dịp chuẩn bị cho năm học mới, các hãng sản xuất bút bi ớ Việt Nam như “Thiên Long”, “Bến Nghé" lại đưa ra nhiều mẫu mã mới từ đơn giản đến cầu kì để đáp ứng cho người tiêu dùng.

Muốn sử dụng bút bi bền lâu, ta cần phải biết cách sử dụng và bảo quản bút bi. Khi viết, chúng ta phải để bút hơi nghiêng từ 40 đến 60°, đặc biệt tránh vừa nằm vừa viết. Khi dùng xong, cần phải đậy nắp lại ngay để tránh bút rớt làm hư đầu bi. Vì đầu bi là bộ phần quan trọng nhất của bút nên nếu hư đầu bi thì bút sẽ không dùng được. Phải để bút luôn nằm ngang để mực luôn lưu thông trong ống. Tôi sẽ chỉ cho các bạn một mẹo nhỏ để sử dụng bút bi. Khi để bút lâu không dùng mực trong ống sẽ bị khô, đừng vội bỏ cây bút mà hãy bỏ bút vào một lượng nước nóng vừa phải ngâm từ mười đến mười lăm phút. Cây bút của bạn sẽ được phục hồi.

Như chúng ta đều biết, bút bi đã đi vào cuộc sống của ta một cách quen thuộc. Nó vừa rẻ tiền lại vừa tiện dụng. Chúng ta có thế thấy nó nằm ở trên bàn, trong túi hay trong xe hơi,... Những nơi nào cần viết sẽ có sự hiện diện của bút bi. Ngoài ra. bút bi còn được dùng tặng miễn phí như một dạng quảng cáo. Gần đây, còn xuất hiện hình xăm bằng bút bi,...

Ý nghĩa của cây bút bi rất quan trọng đối với học sinh chúng ta, chúng ta dường như sử dụng nó mỗi ngày. Bút bi là một vật vô tri, nó không những tạo ra những con chữ đầy ý nghĩa mà còn, nếu chúng ta sử dụng một cách chuyên cần, bút bi sẽ tạo ra những bài văn hay, những trang viết đẹp. Để trở thành người chủ "tài hoa" của bút bi, học sinh chúng ta cần phải giữ vở sạch, rèn luyện chữ đẹp, trao đổi kiến thức. Hãy biến bút bi - cây bút vô tri của bạn trở thành một công dụng cần thiết, một trợ thủ đắc lực trong công việc học tập bạn nhé!

(Bài làm của HS)

BÀI VĂN 2

Chắc mọi người ai cũng biết bút bi là một vật dụng dùng để viết rất phổ biến hiện nay, đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh thì đây ắt hẳn là một vật không thể thiếu được. Sau đây tôi xin được giới thiệu về cây bút bi.

Người xin cấp bằng sáng chế đầu tiên trên thế giới là một người thợ thuộc người Mỹ tên là John Loud vào năm 1888 nhưng không được khai thác thương mại. Cho đến năm 1938, một biên tập viên người Hungari tên là Laszlo Biro đã quá thất vọng về việc sử dụng bút mực nên đã sáng chế ra một loại bút bi sử dụng mực báo khô nhanh và ngày 5/6 ông được nhận bằng sáng chế Anh quốc. Từ khi ra bút bi đã được cải tiến nhiều lần để phù hợp với người sử dụng với các thương hiệu nổi tiếng như: Ba, Hoover, Xeros,... và đặc biệt là thương hiệu: Bic Gristal. Ti năm 1990, vào sinh nhật Biro ngày 29 tháng được coi là ngày của những nhà phát minh bút bi tại Achentina.

Bút bi được cấu tạo bởi ruột là một ống mực đặc, đầu ống gắn với một viên nhỏ có đường kính từ 0,7-1 mm được coi là ngòi bút. Khi viết lên giấy nhờ chuyển động của viên bi nên mực khô rất nhanh, vỏ bút thường được làm bằng nhựa cứng hoặc kim loại nhiều màu. Riêng loại làm bàng nhựa cứng thì chỉ dùng một lần khi hết thì vứt bỏ. Còn loại làm bằng kim loại giá cao hơn nhưng nạp lại mực nhiều lần. Bút bi có thô có nắp đậy khi không dùng đen hoặc nắp gắn liền với thân. Bút có nút bấm đầu bi ra khi viết, bấm thụt đầu bi lại khi không dùng đến. Việc điều khiển đầu bút bi có thể dùng nhiều cách khác nhau như bấm nút hoặc xoay thân bút... Hằng năm, khi vào những năm học mới, các nhà sản xuất bút bi tại Việt Nam như Bến Nghé, Thiên Long,.. lại tung ra thị trường hàng tá mẫu mã khác nhau đơn giản đến cầu kì nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải biết cách sử dụng bút bi sao cho hợp lí.  Khi viết, đè bút nghiêng khoảng từ 40°-60° và tránh vừa nằm vừa viết. Khi viết xong cần phải đậy nắp lại ngay để tránh bút rơi làm hư đầu bi vì nó là bộ phận quan trọng nhất. Ta phải để bút nằm ngang để mực trong ống có thể lưu thông. Có một mẹo nhỏ khi dùng bút bi: Bút để lâu ngày không dùng, mực sẽ bị khô và viết không ra thì ta có thể chữa trị cho nó bằng cách ngâm bút bi trong nước nóng khoảng mười lăm phút, cây bút của bạn sẽ được hồi phục.

Bút bi vừa rẻ tiền tại vừa tiện dụng nên có thể thấy bút bi hiện diện ở khắp nơi trong túi, trong xe hơi và bất nơi đâu cần đến bút. Ngoài ra, bút bi còn được tặng miễn phí như một dạng quảng cáo tiêu dùng sản phẩm in trên bút vì bút bi có giá thành rẻ nhưng lại đạt hiệu quả cao. Vào những năm gần dây, bút bi còn là một phương tiên sáng tác nghệ thuật bằng cách vẽ lên người hay xăm hình bằng bút bi.

Bút bi luôn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống mọi người và đặc biệt đối với học sinh như chúng ta thì nó là một người bạn thân thiết trên con đường học vấn. Bút bi có thể là một vật vô tri vì nó không tự tạo ra những con chữ có ý nghĩa nhưng nếu ở trong tay những người chuyên cần, những người có học thì nó sẽ tạo ra những bài văn hay, những trang viết tuyệt vời. Vì vậy là một học sinh, chúng ta cần phải biết nâng niu và trân trọng bút để xứng đáng là người chủ “tài hoa” của nó. Hãy biến bút bút cây bút vô tri ấy thành một cánh tay đắc lực trong học tập bạn nhé!

(Bài làm của HS)

 BÀI LÀM 3

Cùng với cây thước, quyển sách, cuốn vở, cục tẩy,...bút bi là một trong những dụng cụ học tập cần thiết và rất quan trọng đổi với không chỉ học sinh mà là tất cả chúng ta.

Bút bi có lịch sử hình thành rất lâu đời. Khi con người chưa phát minh ra cây bút bi thì họ đã biết khắc những hình ảnh, kí hiệu, ngôn ngữ của dân tộc lên thẻ tre, hòn đá, vỏ sò,... Người Trung Ọuốc đã phát minh ra cây viết lông được viết bằng mực Tàu vài thế kỉ sau. Mãi cho đến thế kỉ gần đây, người Mỹ phát minh ra bút máy, sau đó họ mới sáng chế ra loại mực cô đặc. Bút bi được ra đời là do bàn tay tài hoa của La Lô Bi-rô người Ác-gen-ti-na sáng chế. Sau đó, các thương gia người Hoa nhập vào Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ hai, cấu tạo của bút bi chỉ khoảng một gang tay, gồm hai phần vỏ và ruột bút, vỏ được làm từ nhựa cứng nhiều màu sắc, mẫu mã phong phú, có in logo, tên nhà sản xuất lên thân bút. Sự phối hợp giữa mẫu mã và màu sắc đã làm cho chiếc bút trở nên sang trọng hơn bao giờ hết. Phần ruột bao gồm một ống nhỏ chứa mực, đầu ống bàng kim loại có gắn một viên bi nhỏ. Khi ta viết, mực sẽ theo viên bi ra ngoài tạo nên chữ. Bút bi có nhiều loại và đa dạng như: bút bấm phần ruột có chứa lò xo, ngòi bút sẽ thụt ra thụt vào  khi ta thao tác bấm nút ở phần đầu bút. Còn có bút đậy nắp thì rất đơn giản khi sử dụng, nhưng ta cần cẩn thận khi sử dụng vì nếu sơ ý để bút bị rơi xuống đất, đầu bị cắm thẳng xuống thì đầu bi sẽ bị vỡ và không thể sử dụng được nữa vì mực lúc đó sẽ không thể ra đều được. Ngoài ra, chúng ta còn có thể thấy rất nhiều loại bút khác nữa: bút lông kim, bút dạ quang, bút kim tuyến,... Bút được chế tạo ra qua rất nhiều công đoạn: Đầu tiên, chọn nhựa và qua quá trình điều chế phản ứng hóa học chúng ta sẽ có được loại nhựa cứng và an toàn với sức khỏe người sử dụng. Rồi tiếp theo là qua giai đoạn nhuộm màu, chọn khuôn, đổ nhựa, kiểm tra độ bền học và tính thẩm mĩ của màu sắc. Tất cả phải có sự phối hợp với nhau để tạo nên một cây bút bi hoàn hảo về chất lượng lẫn mẫu mã.

Đôi với bút bi thì hiện nay có rất nhiều hãng sản xuất, tiêu biểu như: Bến Nghé, Thiên Long, Hanson,... là những hãng quen thuộc với người Việt Nam với giá thành rất thấp, chỉ dao động từ 2000 đồng đến 10000 đồng. Thế nhưng, trên thế giới cũng có những hãng sản xuất bút bi rất uy tín, đi cùng với đó là giá cả cũng đắt, tiêu biểu có những nhãn hiệu như: Pelikan, Waterman, Monblanc,... dao động giá cả từ 2 triệu đến khoảng hàng tỉ. Những cây bút hàng hiệu như thế thì đa phần các doanh nhân thành đạt thường hay sử dụng để khẳng định đẳng cấp và uy tín của mình. Chúng ta thấy rằng, bút bi là một vật dụng rất tiện lợi, nhỏ gọn, viết nhanh. Nếu so với bút máy thì tiện lợi hơn nhiều vì có thể giữ vở sạch đẹp vì mực ta khô nhanh, không bị lem như bút máy, không cần phải bơm mực thường xuyên và đặc biệt là giá thành rất phải chăng.

Có thể nói, bút bi đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống của loài người, đặc biệt là thành phần học sinh, sinh viên là thường sử dụng nhiều nhất. Có được một cây bút bi dường như có thêm một người bạn thân thiết cho mình và chúng ta cần phải trân trọng vì điều đó.



Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/thuyet-minh-ve-mot-do-dung-trong-hoc-tap-but-bi-c35a21533.html#ixzz5duCxJFnY

28 tháng 1 2019

Cách làm món trứng rán ngon nhất

Trứng rán hoặc còn được kêu là trứng chiên ~ chính là một trong những món ăn ngon dân dã được nhiều người biết đến nhất ở Việt Nam. Trứng rán ngon lại dễ chế biến nên luôn được tin dùng. Nhưng khiến tráng trứng đúng cách đúng điệu thì không phải thiếu nữ nào cũng hiểu được. Bỏ túi mách bạn bí quyết về các bước thực hiện trứng rán thơm ngon nhất theo học làm của toiyeuamthucviet.over-blog.com cam đoan sẽ khiến cho bạn vừa lòng. Không tin hãy thử nghiệm tập làm bây giờ nha !!

Thành phần bạn cần có làm trứng rán thơm ngon nhất:

- Ba quả trứng gà lớn

- One củ hành khô

- Hành lá,

- Rau mùi (Nếu vừa ý)

- Hạt nêm, nước mắm, mì chính, hạt tiêu, dầu rán

Công cụ làm trứng rán thơm ngon nhất:

- Chén to nhỏ, thường

- Dao, thớt, đũa, muổng lớn, …

- Phới lưới quay trứng

- Chảo thường chống dính

- Dĩa sạch

Các bước thực hiện trứng rán thơm ngon nhất:

Quy trình 1:

- Trước hết, các bạn mua hành lá về, nhặt bỏ cuống, kế đến đem làm sạch, để Hai 'p cho khô nước.

- Nếu mang rau mùi thì các bạn nhặt bỏ lá vàng, xấu. Đem rửa thật sạch để Hai 'p cho hết nước. Chia thành Hai phần.

- Kế đến dùng dao thái nhỏ vừa 1 phần rau mùi (Nếu có) và hành lá ở trên one cái thớt sạch. Để vào một cái chén to hơi nhỏ. Đặt sang 1 bên.

Quy trình 2:

- Trứng gà bạn đập ra one cái bát thường. Sau đấy đổ bát hành lá và rau ở trên vào đây.

- Cho vào 1 ít hạt nêm, nước mắm, mì chính, một ít hạt tiêu, dùng phới lưới xay tan hỗn hợp này.

- Ngày lúc này, hành khô đem ra thái nhỏ vừa. Thêm vào một cái khây đựng con.

Quy trình 3:

- Đặt chảo không dính lên bếp. Đổ dầu thực vật vào chảo. Bật bếp lên và vặn lửa lớn cho dầu mau sôi.

- Chờ đời khi dầu sôi và nóng già, các bạn vặn bớt lửa vừa lại. Cho hành khô vào phi thơm.

Tiếp tục cho trứng vào rán, khéo léo cuộn trứng mục đích trứng sẽ đẹp mắt hơn và hạn chế làm trứng bị nát rách khi lật trứng nhé !!

Quy trình 4:

- Bạn cần đun cho nóng nhỏ lửa để trứng không bị cháy. Rán đến khi trứng vàng dễ nhìn mắt thì lật lại mặt bên nhầm rán thêm một lượt nữa cho đều.

- Sau khi hổn hợp từng trải qua 2 mặt trứng chiên vàng ưng ý thì bạn đóng bếp.
- Khéo léo gắp trứng ra dĩa và dùng dao hay kéo để xắt trứng thành miếng vừa ngon và sắp xếp ra dĩa sao cho bắt mắt và có phần am tường 

- Các bạn có thể rải cho vào 1 ít vài cọng lá rau mùi, 1 lớp sốt cà chua lên trên cùng hoặc nếu ưng ý cay, bạn hoàn toàn các bạn có thể rải tương ớt tươi lên lớp trên cùng cho trứng chiên thêm thú vị nha!

- Như thế là bạn đã cùng toiyeuamthucviet học cách thực hiện trứng rán thơm ngon nhất mà không phải bất kỳ ai cũng biết rồi đấy! Ước mong bạn sẽ có thêm rất nhiều kiến thức bổ ích trong việc nấu nướng món ăn hàng ngày!

Ước mong bạn thực hiện tốt cùng với các bước thực hiện trứng rán thơm ngon nhất nha !!

27 tháng 1 2019

1) ARMY

2) Bangtan Boy

3) Jung kook

27 tháng 1 2019

1)ARMY

2)Bangtan BTS

3)jung kook

                                                                                 TỨC CẢNH PÁC BÓ                                                                                                               Hồ Chí Minh                                                                             Sáng ra bờ suối, tối vào hang,             ...
Đọc tiếp

                                                                                 TỨC CẢNH PÁC BÓ

                                                                                                               Hồ Chí Minh


                                                                             Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
                                                                             Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
                                                                             Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
                                                                             Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Qua bài thơ có thể thấy rõ Bác Hồ cảm thấy vui thích, thoải mái khi sống giữa thiên nhiên. Nguyễn Trãi cũng từng ca ngợi "thú lâm tuyền" ( niềm vui thú được sống với rừng, suối ) trong bài Côn Sơn ca. Hãy cho biết " thú lâm tuyền" ở Nguyễn Trãi và Bác Hồ có gì giống và khác nhau.

1
27 tháng 1 2019

Hồ Chí Minh là vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Sau ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Người đã trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Hoài bão cứu nước đã làm cho Người luôn nghĩ về đất nước: “Đêm mơ ước thấy hình của nước” (Chế Lan Viên). Đất nước Việt Nam luôn in đậm trong trái tim người. Tình yêu đất nước nồng nàn đã làm Bác quên đi sự gian khổ tột cùng trong bước đường hoạt động cứu nước, cứu dân. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã cho thấy cuộc sống đầy gian khổ của Bác trong thời kì ở hang Pác Bó nhưng cũng thể hiện tâm trạng thoải mái, lạc quan của Người khi được sống giữa thiên nhiên. Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng Bác vẫn tràn đầy tình yêu thiên nhiên và lòng lạc quan tin tưởng. Bác tự hào về cuộc sống đầy ý nghĩa của người cách mạng.

Mở đầu bài thơ là phong cảnh núi rừng, là nơi hoạt động của người cộng sản:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Câu thơ có hai vế sóng đôi đã làm toát lên một cuộc sống nhịp nhàng, nề nếp của con người: sáng ra, tối vào. Nơi vào lại là hang trong núi, một nơi ở sao mà chật chội lạ lùng. Cuộc sống trong hang đá khó khăn, gian khổ biết nhường nào, thế nhưng ta luôn bắt gặp một tâm hồn khoáng đạt, đa cảm. Bác Hồ sống thật ung dung nơi núi rừng đầy gian khổ ấy. Sự ung dung của Bác đã thể hiện rõ trong cuộc sống vật chất đạm bạc, thiếu thốn:
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bác đã thích nghi với cuộc sống thiếu thốn một cách tự nhiên, Bác không mảy may cảm thấy mình vất vả mà ngược lại Bác cảm thấy rất vui. Có lẽ vui nhất vì sau bao nhiêu năm xa đất nước nay được trở về sống với đất nước thân yêu. Bác tin rằng, thời cơ giành độc lập hoàn toàn đang tới.

Niềm vui ấy đã làm cho Bác say mê làm việc, say mê trong bước đường hoạt động và lãnh đạo kháng chiến.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng.
Đây là hình tượng trung tâm của bài thơ. Cuộc sống giữa núi rừng thật gian khổ, vất vả, thiếu thốn. Nơi làm việc cũng không lấy gì thoải mái vì bàn đá chông chênh, nhưng dáng điệu của Bác vẫn lồng lộng đường hoàng. Bác say mê với công việc, tập trung cao độ vào công việc mà chẳng hề quan tâm đến vật chất quanh mình. Từ láy chông chênh chỉ sự tạm bợ, nghèo về vật chất. Sống giữa thiên nhiên, làm việc giữa đất trời khoáng đạt, Bác cảm thấy vui và hăng say với công việc của mình. Trên cái bàn đá “thiên tạo” ấy, Bác vẫn miệt mài dịch sử Đảng, tìm ra đường lối để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong những ngày tháng ở núi rừng Việt Bắc, ở hang Pác Bó, cuộc sống thật kham khổ về vật chất nhưng qua giọng điệu, từ ngữ, hình ảnh thơ và cách nói của Người, ta thấy toát ra niềm vui lớn lao của Bác. Câu kết bài thơ là lời nhận định tổng quát của Bác:
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Bác tự hào về cuộc đời cách mạng, nó sang trọng, cao quí. Chữ sang ở cuối bài thơ đã toả sáng tinh thần của toàn bài thơ. Sang ở đây không phải là vật chất sang trọng, giàu sang phú quý mà đây là cái thoải mái tinh thần, cuộc sống đầy ý nghĩa của người cách mạng. Với Bác, cứu dân, cứu nước là niềm vui, là lẽ sống, là lí tưởng của mình. Hơn nữa, dường như ở Bác luôn sẵn có,cái thú lâm truyền: Bác thích sống ở núi rừng, được sống hoà hợp cùng thiên nhiên, cây cỏ.Tuy nhiên, cái vui thú của Bác không phải là được làm một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ, suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng dân tộc. Rõ ràng ở Bác có những nét đẹp của phong cách cổ điển đan xen với nét đẹp của phong cách hiện đại. Vẻ đẹp này đã thể hiện trong phong cách thơ của Bác.

Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ tứ tuyệt rất giản dị nhưng rất hàm súc, ý nghĩa thật sâu xa. Lời thơ pha giọng vui đùa cho ta thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung cả Bác Hồ trong cuộc sống đầy gian khổ ở núi rừng Việt Bắc. Tinh thần ấy đã giúp Bác vượt qua mọi khó khăn gian khổ để lãnh đạo cách mạng Việt Nạm giành thắng lợi vẻ vang.