Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ bản nhất của truyện; nó bao gồm các giai đoạn phát triển chính, một hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của các tác phẩm văn học, nhất là đối với các sáng tác thuộc các loại tự sự và kịch.
Từ những sự vật, sự kiện có thật hoặc theo dân gian và cũng có thể là từ những ý tưởng
LGBT là cộng đồng của những người dị giới (đồng tính, lưỡng tính, vô tính, chuyển giới).
@Cỏ
#Forever
LGBT gồm đồng tính, gay, song tính, chuyển giới - đây chính là thuật ngữ mô tả xu hướng tình dục của một người, cụ thể là khi họ có xu hướng tình dục với những người có cùng giới tính, yêu người cùng giới, ví dụ nam yêu nam, nữ yêu nữ, ngoài ra người song tính là sự mô tả một người là nam giới hoặc nữ giới đều bị thu hút tình yêu, tình dục bởi cả hai giới (tức là nam có thể yêu nữ, nam có thể yêu nam và ngược lại ở phái nữ cũng vậy).
Một nghiên cứu thống kê tại đất nước Mỹ, có khoảng 3,5% dân số được xác định là người đồng, người song tính và người muốn chuyển giới về giới tính thật của mình nhưng ngoài ra cũng có rất nhiều người không có cảm xúc tình dục với bất kỳ giới tính nào đây có thể được gọi là người vô tính.
Ở thời kỳ xa xưa, khi y học chưa phát triển, xã hội chưa hiện đại như ngày nay thì những người thuộc cộng đồng LGBT có thể bị coi là mắc bệnh tâm thần, mọi người không công nhận đây là một giới tính mà nghĩ người LGBT là những người bị tâm thần, có vấn đề về thần kinh. Nhưng kể từ ngày 15/7/1990 Liên Hiệp Quốc công bố LGBT không phải là một bệnh tâm thần - một cột mốc đáng nhớ với những người thuộc cộng đồng LGBT bởi họ đã chính thức được thừa nhận, được tự do sống với chính mình và được coi là một trong những cộng đồng của nhân loại.
Trong những năm gần đây, trên thế giới, cộng đồng LGBT ngày càng phát triển mạnh mẽ, ở Châu âu, một số nước như Hà Lan, Tây Ban Nha,... đã chấp nhận hôn nhân đồng tính và coi đó là hôn nhân hợp pháp.
KHAM KHẢO LÀM THÀNH CỦA MÌNH
Nghị luận: “Văn học là nhân học” (M.Gorki)
- Mở bài:
Mối quan giữa văn học và nhân học không phải bỗng nhiên mà thành. Trong quá trình tạo dựng sự nối kết hai lĩnh vực cũng đã có không ít những bất đồng về quan điểm. Ngay trong khái niệm nhân học, theo nghĩa hẹp nhất, là khoa học về con người. Quan niệm ấy đã kéo theo một lịch sử lâu dài nhiều hoạt động và lĩnh vực liên quan. Ngay từ buổi sơ khai, văn học đã không thể tách rời khỏi nhân học. Nó hình thành nên bản chất cốt lõi của văn học ngày nay. Bàn về vấn đề này, M.Gorki cho rằng “Văn học là nhân học”. Đây là nhận định hết sức đúng đắn vè vai trò, nhiệm vụ và thiên chức của nhà văn trong sự nghiệp cầm bút của mình.
- Thân bài:
Văn học là gì?
Văn học là khoa học về cái đẹp (văn) trong cuộc sống, được biểu đạt bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu hình tượng. Cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua bình diện ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn học có tính hình tượng, được sắp xếp theo một tổ chức nhất định để ngôn từ phát huy giá trị của nó. Đồng thời nó có tính chuẩn mực cao (hàm súc và cô đọng, đa nghĩa, biểu cảm). Văn học biểu đạt nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ của con người trước cuộc sống. Những vấn đề nhân sinh cũng được đặt ra ở trong đó.
Nhân học là gì?
Nhân học là một lĩnh vực nhận thức khoa học, trong đó nghiên cứu các vấn đề nền tảng của tồn tại con người trong môi trường tự nhiên và nghệ thuật. Theo nghĩa chung nhất “Nhân học” là khoa học về con người.
“Văn học là nhân học” nghĩa là gì?
Thông qua các tác phẩm, văn học phản ánh toàn diện đời sống tinh thần, vật chất và các quy luật vận động của xã hội loài người. Theo câu nói của M.Gorki thì “nhân học” ở đây trọng tâm tập trung phản ánh tính xã hội của con người, tức lòng nhân ái của con người.
Như vậy, “Văn học là nhân học” có thể hiểu văn học đã phản ánh, đề cao tình yêu thương con người trong mỗi tác phẩm văn chương. Văn học lấy con người làm đối tượng phản ánh và hướng đến phục vụ đời sống con người.
Tại sao “văn học” có thể là “nhân học”?
Lúc ban đầu, văn học chỉ là một hình thức nghệ thuật ghi lại những suy nghĩ, cảm nhận và rung động của con người về hiệu thực cuộc sống. Trải qua thời gian, văn học trở thành phương tiện giúp con người phản ánh sâu sắc đời sống hiện thực, đời sống tinh thần và là công cụ dùng để đấu tranh cho lẽ phải, sự công bình. Thế nhưng, chức năng này không phải nhà văn nào cũng tôn trọng và vận dụng.
Câu nói của M.Gorki dường như đã được hun đúc lại từ chính cuộc đời cầm bút của ông – một nhà văn hiện thực vĩ đại. Từ những kinh nghiệm thực tiễn, M.Gorki tổng kết thành triết lí ngắn gọn mà chính xác đến kì lạ. Nhiệm vụ của văn học không có gì khác ngoài phản ánh chân thực đời sống con người. Góc độ phản ánh phải giàu tính nhân văn, hướng đến giải phóng con người ra khỏi mọi khổ đau hay ràng buộc nào đó. Đó là phát hiện mới mà lại không mới, được tinh kết trong một câu nói ngắn gọn mà không ngắn gọn. Đối với những người chỉ coi văn chương là một thứ phù phiếm thì câu nói ấy gần như vô nghĩa lí. Triết lí ấy cũng không có gì đáng phải suy nghĩ. Nhưng ở đây, M.Gorki thực sự đã đặt ra một mệnh đề đòi hỏi chúng ta phải suy ngẫm.
Cũng như hội họa, ca nhạc, điêu khắc và các lĩnh vực nghệ thuật khác, trước hết, văn học là một bộ môn nghệ thuật. Văn học tuân thủ các nguyên tắc của một bộ môn nghệ thuật ngôn ngữ với kết cấu phức tạp và chặt chẽ của nó. Nó mang đậm đặc trung của bộ môn nghệ thuật. Bởi thế, nó hướng đến chức năng giải trí, làm thỏa mãn nhu cầu cảm nghiệm của con người. Nhưng đối với văn học đích thực, nó vượt lên trên điều đó khi tồn tại và phát triển. Đối tượng chủ đạo của văn học là con người và hiện thực cuộc sống. Hai đối tượng ấy được soi chiếu qua mọi góc độ trong sự tương quan phức tạp, đa chiều.
Nói văn học là nhân học là một nhận định hoàn toàn đúng đắn và giàu tính nhân văn. Văn học không chỉ phản ánh đời sống con người mà còn phải nhận thức con người và đời sống con người. Văn học nói lên những ước mơ, khát vọng, những tâm tư, tình cảm của con người trong chiều sâu tâm hồn với sự đa dạng, phong phú.
Đọc những bài ca dao bình dị trong kho tàng văn học dân tộc ta hiểu rõ đời sống tâm tư, tình cảm của những người lao động nghèo khó mà nghĩa tình, khát khao cuộc sống yên bình, tươi đẹp. Những bài ca dao ngắn ngủi, mềm mại đâu chỉ là một hình thức nghệ thuật đơn thuần mà chứa trong nó là cả một thế giới được lưu giữ cẩn thận và bền lâu.
Qua hình ảnh chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố ta hiểu người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám luôn khao khát có một cuộc sống yên bình trong cuộc sống vốn đầy rẫy sự bất công. Đối với họ, nghèo khổ không thực sự đáng sợ. Cái đáng sợ hơn đó là tai họa có thể giáng xuống đầu họ bất cứ lúc nào mà họ thì hoàn toàn không có khả năng phòng bị hay phản kháng. Ta cũng hiểu ra ý nghĩa của cái nhan đề Tắt đèn, vừa tinh tế vừa đầy cảm thương của nhà văn đối với số phận con người.
Đọc truyện ngắn Cô bé bán diêm ta cũng thấy rõ niềm khát khao được sống hạnh phúc bên người thân yêu của cô bé bán diêm nghèo khổ. Cái lạnh của đêm noen không đáng sợ bằng sự lạnh lẽo trong lòng cô bé và tình đời, tình người trong cuộc đời này.
Chỉ đến lúc nào đó văn học mới là văn học đích thực khi văn học thể hiện được sự khám phá và sáng tạo về con người; nó hình thành những kiến giải hay và đẹp về con người và đời sống con người. Với văn học, chất liệu đầu tiên để cấu thành tác phẩm là ngôn từ. Nhưng yếu tố cuối cùng quyết định sự sống còn của tác phẩm lại không phải là ngôn từ. Đó chính là hình tượng nhân vật. Nhân vật văn học không ai khác chính là những con người trong cuộc sống. Trở thành đối tượng phản ánh của văn học, con người hiện ra sinh động, chân thực trong mỗi tác phẩm. Tất cả chứa đựng tính nhân học của văn học.
Đọc tác phẩm ta nhận ra mình qua mỗi nhân vật ở từng ngóc ngách nội tâm, từng biểu hiện tình cảm, hiểu đúng hơn và nhiều hơn về cái thế giới tinh thần phong phú và bí ẩn vốn bị cái bề ngoài bao phủ. Và chính cái “thế giới tinh thần phong phú và bí ẩn” ấy thể hiện rõ nhất cái “nhân học” của văn chương.
Qua nhân vật Thúy Kiều cho ta thấy được sự vận động tinh thần của nàng trong từng hoàn cảnh cụ thể. Lúc vui tươi, hạnh phúc. Lúc lại khổ đau, tủi nhục đến vô hạn. Lúc bế tắc, tuyệt vọng cùng cực. Chính điều đó khiến ta biết cảm thông, chia sẻ và đồng cảm với thân phận và cuộc đời khổ nhục của nàng. Và từ đó càng căm ghét hơn cái xã hội bất nhân tàn bạo đã chà đạp lên nhân cách nhân phẩm con người; tước đoạt quyền sống, quyền làm người của những con người nhỏ bé trong xã hôi.
Chính văn học đã phát hiện và tôn vinh những phẩm chất quý báu ở con người vốn bị cuộc đời trần trụi che phủ. Sự thấu nhận từ thực tế đôi khi bị sai lệch nhưng trong tác phẩm, người đọc có thể bình tĩnh thấu suốt điều đó một cách rõ ràng.
Nhờ tác phẩm Chí Phèo mà ta biết rằng trong chính những kẻ xấu xí nhất trần gian, trái tim cũng biết rung động vì yêu. Qua nhân vật AQ ta mới biết rằng trong cuộc đời cũng có lắm kẻ có phép thắng lợi tinh thần một cách đáng thương. Văn học đã cho ta cái nhìn thấu suốt vào đời sống con người mà không một nghệ thuật nào làm được. Văn học tìm kiếm, phát hiện và ngợi ca những điểm sáng ở họ, vốn từ lâu đã bị cuộc đời che phủ.
Có thể trong cuộc đời Nguyễn Du đã không làm được điều đó, Nhưng với văn học, ông đã đi rất xa, vượt lên trên mọi sự thấp hèn, vươn đến hoài vọng, ước mơ. Ông mở ra cho người đọc một tầm nhìn bao quát và toàn diện về bức tranh xã hội đương thời và con đường đi tìm lẽ sống của nhân vật. Có những điều chỉ có văn học mới làm được. Không còn nghi ngờ gì nữa, sản phẩm tạo ra trong quá trình tương tác đó chính là “nhân học” – tình yêu thương con người và cuộc sống. Kể cả kết quả sau cùng của nó cũng vì con người mà tồn tai.
Văn học còn là sự thể hiện tinh tế tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng, quan điểm và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn đối với con người và cuộc sống. Mỗi trang văn, mỗi bài thơ (đích thực) dù nói về gì, đề tài gì rộng lớn hay bé nhỏ đều thể hiện lòng yêu, sự ghét của tác giả. Tác phẩm thể hiện một quan điểm nhân sinh hoặc lên án cái ác, hoặc ca ngợi tình yêu, đưa tới sự hướng thiện, cái cao cả, cái đẹp của thiên nhiên và con người.
“Văn học là nhân học” là một ẩn ý súc tích như bản chất của văn học. Văn học là khoa học về con người. Không phải là cái con người sihn học mà đó là những con người với cuộc sống tinh thần phong phú và đa dạng của họ. Tư tưởng ấy không chỉ là lí thuyết suông mà nó biến thành hành động, trở thành động lực thúc đẩy hành động. Học văn là để hiểu sâu hơn tâm hồn con người, đồng thời cũng là để học cách làm người. Phải chăng đó chính là điều M.Gorki muốn nói với chúng ta – những người đã phần nào đặt chân vào ngưỡng cửa văn học?
- Kết bài:
Đến với văn chương là bước vào thế giới của tình người. Tác phẩm chính là điểm gặp gỡ đầu tiên giữa nhà văn và đọc giả thông qua thế giới nhân vật sinh đông, phong phú. Để văn học là nhân học thì cả nhà văn và người đọc đều phải “kết dính” trong tình yêu thương con người vô hạn và vĩnh hằng. “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà văn nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê khốp). Và hiển nhiên tác phẩm văn học cũng chính là nhân học, là khoa học về con người.
- Nghị luận về lòng nhân ái
- Nghị luận: Văn học và tình thương “Cái cốt lõi của văn học là lòng nhân ái” (Rasul Gamzatop)
- Làm sáng tỏ nhận định: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng tạo ra sự sống. Vũ trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác”
Tóc bà bạc hết bà ơi!
Như bao nhiêu sợi tơ trời trắng vương.
Sợi nào sợi nắng sợi sương
Sợi nào sợi quý, sợi thương, hở bà
Truyện cổ
Cuộc sống
Tiếng xưa
Cơn nắng
Cơn mưa
Con sông
Rặng dừa
@Cỏ
#Forever
Gạch chân dưới từ chỉ sự vật trong khổ thơ sau:
"Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi."
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
THAM KHẢO
Dù có bất kì ở xã hội nào chế độ nào thì vẫn luôn tồn tại hai mặt tốt và xấu, thiện và ác. Chính vì thế cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác vẫn là tâm điểm của mọi sự chú ý. Nếu bạn đã từng đọc truyện Tấm Cám bạn mới thấy được cuộc đấu tranh ấy khốc liệt thế nào. Và nó cũng góp phần thể hiện những khía cạnh khác của xã hội xưa và nay.
Câu chuyện Tấm Cám là một câu chuyện cổ tích được xây dựng trên trí tưởng tượng phong phú của tác giả dân gian và thể hiện mong muốn của họ gửi gắm vào cuộc sống. Câu chuyện xoay quanh nhân vật Tấm một đứa trẻ bất hạnh mồ côi cha mẹ từ thuở tấm bé. Tấm phải sống trong sự ghẻ lạnh ganh ghét của mẹ con dì ghẻ là mẹ con nhà Cám. Họ hết lần này đến lần khác chèn ép và áp bức Tấm. Thân phận yếu đuối Tấm chỉ biết nhẫn nhịn cam chịu mỗi lần ấm ức khóc Bụt lại hiện lên để giúp đỡ Tấm. Cho đến khi Tấm được làm hoàng hậu mẹ con nhà Cám vẫn tìm cách giết Tấm hết lần này đến lần khác. Mẹ con Cám bày mưu để Tấm trèo cau ngày giỗ cha rồi ở dưới chặt cây cau, Tấm chết hóa thành chim Vàng anh. Cám giết chim vàng anh Tấm hóa thành cây xoan đào Vua mắc cửi hóng mát, Cám chặt cây xoan đào làm khung cửi. Khung cửi chửi Cám, Cám đem đốt rồi rắc tro quanh gốc thị, kì lạ cây thị chỉ duy nhất có một quả. Rụng vào bị của bà cụ bán nước bà cụ mang về để ngửi. Ngày ngày Tấm chui từ quả thị ra nấu cơm, dọn nhà cho bà cụ. Bà cụ nhìn thấy từ đó hai người sống nương tựa vào nhau. Nhà vua đi qua tình cờ gặp lại Tấm hai vợ chồng về chung sống hạnh phúc. Thấy chị trở về lại xinh đẹp Cám lân la hỏi chị bí quyết Tấm bày cách cho Cám bằng việc đào một hố sâu rồi nhảy xuống đó. Tấm ở trên đổ nước sôi xuống giết chết Cám. Cám chết, Tấm lấy đầu lâu làm mắm gửi cho mụ dì ghẻ ăn. Mụ ăn đến cuối thấy đầu lâu thì lăn đùng ra chết.
Người xưa đã xây dựng nên hai tuyến nhân vật vô cùng điển hình đại diện cho hai thế lực trong xã hội: Tấm đại diện cho sự thiện lương còn Cám với dì ghẻ đại diện cho cái xấu. Cái thiện là những hành động suy nghĩ tích cực giúp ích cho xã hội. Còn cái ác đó chính là những điều xấu xa làm hại đến con người và cần phải loại trừ trong cuộc sống. Mỗi lần bất hạnh Tấm chỉ biết khóc lóc, đau khổ và mỗi lần như thế Bụt lại hiện lên giúp Tấm giải quyết mọi chuyện. Bụt ở đây chính là đại diện cho cái thiện là đại diện cho số đông những người yêu cái thiện. Những tình huống hư cấu trong truyện là tác giả dân gian sáng tạo nhằm xoa dịu đi sự phẫn nộ của người dân và khẳng định quy luật ở hiền gặp lành. Tấm dù không mạnh mẽ một mình đơn độc nhưng cuối cùng Tấm vẫn chiến thắng những thế lực bạo tàn.
Câu chuyện Tấm Cám phản ánh ước mơ khát vọng bình yên vào cuộc sống. Sự chiến thắng của Tấm chính là sự chiến thắng tất yếu của chân lí. Hành động cuối cùng của Tấm gây nên nhiều tranh cãi cho độc giả. Tuy nhiên nếu bạn đặt nó trong hoàn cảnh bấy giờ thì bạn mới thấy nó hợp lí. Mẹ con Cám đã cố tình bao lần giết chết TẤm một cách tàn nhẫn. Vì thế cái kết cục đó cũng là hoàn toàn dễ hiểu và hợp lí.
Nhưng trên thực tế, rất nhiều những người hiền lành tử tế thì đều không chiến thắng nổi cái ác. Nhất là ở xã hội phong kiến lúc bấy giờ nó bắt ai chết đều phải chết. Cũng chẳng có ông Bụt nào có thể xuất hiện hết lần này đến lần khác được. Câu chuyện chỉ là sự thêu dệt của người dân nhằm nói lên sự khát vọng của xã hội xưa.
Trong cuộc sống hiện tại cũng vậy, không phải lúc nào cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác cũng dành phần thắng. Bạn có thể nhận cuộc đấu tranh ấy ở bất kì đâu trong các gia đình đến ngoài xã hội. Anh em tranh chấp đất đai tiền bạc cha mẹ để lại….Vậy làm sao để công bằng luôn hiện hữu khắp nơi? Vậy thì trước hết bản thân mỗi con người phải thiện lương phải nhận biết được cái tốt và cái xấu để mạnh mẽ lên án và loại trừ nó. Tuyệt đối đừng nên để bản thân mình dính vào những điều sai trái. Bên cạnh đó cũng không nên xa lánh những kẻ có lỗi và biết hối lỗi.
Con người sinh ra ai cũng mong những điều tốt đẹp dành cho mình nhưng thực tế cuộc sống không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Hãy giữ cho mình một tâm hồn lương thiện, thanh cao vì nó sẽ khiến cuộc sống của bạn trở nên ý nghĩa và xã hội tốt đẹp văn mình hơn.
HT~~~