K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

28 tháng 11

Héc-to (Hector) và Ăng-droo Mác (Andromache) là hai nhân vật quan trọng trong tác phẩm "Cuộc chiến thành Troy" (Iliad) của Homer. Không gian xuất hiện của họ thường gắn liền với những bối cảnh cụ thể, phản ánh cuộc sống và số phận của họ trong cuộc chiến.

1. **Héc-to**:
   - Là một trong những anh hùng vĩ đại của thành Troy, Héc-to đại diện cho lòng dũng cảm, danh dự và tình yêu gia đình. Các cảnh xuất hiện của anh thường diễn ra tại chiến trường, nơi anh chiến đấu chống lại quân Hy Lạp để bảo vệ thành phố Troy.
   - Héc-to cũng có những khoảnh khắc thể hiện tình cảm với gia đình, đặc biệt là khi anh gặp gỡ vợ mình, Ăng-droo Mác, và con trai. Những cảnh này thường mang tính nhân văn, thể hiện mâu thuẫn giữa nghĩa vụ chiến đấu và tình yêu thương với gia đình.

2. **Ăng-droo Mác**:
   - Là vợ của Héc-to, Ăng-droo Mác đại diện cho sự hy sinh và nỗi đau mất mát trong bối cảnh chiến tranh. Không gian mà cô xuất hiện thường là trong cung điện của Troy hoặc các khu vực an toàn, nơi cô lo lắng cho Héc-to và con trai của họ.
   - Cô thường thể hiện nỗi sợ hãi về số phận của chồng mình trong trận chiến và nỗi lo lắng về tương lai của con trai khi mất đi người cha. Đây là những khoảnh khắc đầy cảm xúc, nhấn mạnh thiệt hại của chiến tranh đến cuộc sống gia đình.

Tóm lại, không gian xuất hiện của Héc-to và Ăng-droo Mác không chỉ là nơi diễn ra các hành động, mà còn là bối cảnh tâm lý thể hiện những xung đột giữa nghĩa vụ và tình yêu, giữa chiến tranh và hòa bình. Bạn có muốn khám phá thêm về một trong hai nhân vật hoặc các khía cạnh khác trong tác phẩm không?

28 tháng 11

Héc-to (Hector) và Ăng-droo Mác (Andromache) là hai nhân vật quan trọng trong tác phẩm "Cuộc chiến thành Troy" (Iliad) của Homer. Không gian xuất hiện của họ thường gắn liền với những bối cảnh cụ thể, phản ánh cuộc sống và số phận của họ trong cuộc chiến.

1. **Héc-to**:
   - Là một trong những anh hùng vĩ đại của thành Troy, Héc-to đại diện cho lòng dũng cảm, danh dự và tình yêu gia đình. Các cảnh xuất hiện của anh thường diễn ra tại chiến trường, nơi anh chiến đấu chống lại quân Hy Lạp để bảo vệ thành phố Troy.
   - Héc-to cũng có những khoảnh khắc thể hiện tình cảm với gia đình, đặc biệt là khi anh gặp gỡ vợ mình, Ăng-droo Mác, và con trai. Những cảnh này thường mang tính nhân văn, thể hiện mâu thuẫn giữa nghĩa vụ chiến đấu và tình yêu thương với gia đình.

2. **Ăng-droo Mác**:
   - Là vợ của Héc-to, Ăng-droo Mác đại diện cho sự hy sinh và nỗi đau mất mát trong bối cảnh chiến tranh. Không gian mà cô xuất hiện thường là trong cung điện của Troy hoặc các khu vực an toàn, nơi cô lo lắng cho Héc-to và con trai của họ.
   - Cô thường thể hiện nỗi sợ hãi về số phận của chồng mình trong trận chiến và nỗi lo lắng về tương lai của con trai khi mất đi người cha. Đây là những khoảnh khắc đầy cảm xúc, nhấn mạnh thiệt hại của chiến tranh đến cuộc sống gia đình.

Tóm lại, không gian xuất hiện của Héc-to và Ăng-droo Mác không chỉ là nơi diễn ra các hành động, mà còn là bối cảnh tâm lý thể hiện những xung đột giữa nghĩa vụ và tình yêu, giữa chiến tranh và hòa bình. Bạn có muốn khám phá thêm về một trong hai nhân vật hoặc các khía cạnh khác trong tác phẩm không?

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:                        Đêm hè Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn, Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn. Bối rối tình duyên cơn gió thoảng, Nhạt nhèo quanh cảnh bóng trăng suông.  Khăn khăn, áo áo thêm rầy chuyện, Bút bút, nghiên nghiên, khéo giở tuồng. Ngủ quách sự đời thây kẻ thức, Chùa đâu chú trọc đã hồi chuông.                               (Thơ văn...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

                      Đêm hè

Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn,
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn.
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng,
Nhạt nhèo quanh cảnh bóng trăng suông. 
Khăn khăn, áo áo thêm rầy chuyện,
Bút bút, nghiên nghiên, khéo giở tuồng.
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức,
Chùa đâu chú trọc đã hồi chuông. 

                             (Thơ văn Trần Tế Xương, NXB Giáo dục, 1984)

Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ.

Câu 2. Chỉ ra những cảm xúc, tâm trạng được thể hiện trong bài thơ.

Câu 3. Dòng thơ đầu: Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn, đã gợi lên cho em những cảm nhận, suy nghĩ gì?

Câu 4. Phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ hai dòng thơ: Khăn khăn, áo áo thêm rầy chuyện,/ Bút bút, nghiên nghiên, khéo giở tuồng.

Câu 5. Qua bài thơ, Tú Xương hiện lên với vẻ đẹp nào?

0
27 tháng 11

5 củ

 

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  Thị Phương: (Hát tiếp) - Người chồng tôi tên gọi Trương Viên                                        Vua sai dẹp giặc nước Xiêm khơi chừng                                        Bởi vì đâu chếch nón ả Hằng                                        Thờ chồng chực tiết khăng khăng chẳng rời                                        Bởi vì đâu binh lửa bời...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Thị Phương: (Hát tiếp) - Người chồng tôi tên gọi Trương Viên

                                       Vua sai dẹp giặc nước Xiêm khơi chừng

                                       Bởi vì đâu chếch nón ả Hằng

                                       Thờ chồng chực tiết khăng khăng chẳng rời

                                       Bởi vì đâu binh lửa bời bời

                                       Xa miền quê quán, ngụ nơi lâm tuyền

                                       Một mình tôi nuôi mẹ truân chuyên

                                       Quyết liều phận bạc chẳng dám quên ngãi chàng

                                       Gặp những loài ác thú hổ lang

                                       Người rắp làm hại, khấn kêu vang lại lành

                                       Trở ra về qua miếu thần linh

                                       Thần đòi khoét mắt lòng thành tôi kính dâng

                                       Vậy nên mù mịt tối tăm

                                       Nàng tiên dạy hát, kiếm ăn qua tháng ngày.

                                       Sự tình này trời đất có thấu hay

                                       Chàng Trương Viên có biết nông nỗi này cho chăng?

Trương Viên:                - Nghe tiếng đàn cùng tiếng hát

                                       Chuyển động tâm thần

                                       Đường từ mẫu có biết chăng, hỡi mẹ?

Thị Phương: (Nói sử)   - Tiền ông thưởng tôi còn để đó

                                       Tôi chẳng hề tiêu đụng một phân

                                       Xin ông dùng nói chuyện tần ngần

                                       Mà tôi mang tiếng không thanh danh tiết

Trương Viên:                - Tưởng là nhận vợ, vợ lại chẳng nhìn

                                       Đường từ mẫu có biết chăng, hỡi mẹ ? (Nói sử)

Mụ:                               - Ới con ơi,

                                       Con đừng nói nữa, trước tủi chồng, sau tủi mẹ.

Thị Phương: (Nói sử)   - Thực chồng con đã tỏ

                                       Hình dạng như in

                                       Nào trước khi phu phụ hợp hôn

                                       Những của ấy đưa ra nhận tích.

Mụ:                              - Ơi này con, vợ con nói: ngày xưa quan Thừa tướng có cho cái gì làm ghi tích không, con đưa cho vợ nó xem để nó nhận.

Trương Viên:                - Anh khá khen em mười tám năm nay chẳng có đơn sai

                                       Lòng thương em nhớ mẹ ngậm ngùi.

                                       Đây, ngọc kim quyết giao em nhận tích

(Thị Phương cầm ngọc, ngọc nhẩy lên mắt, mắt sáng trở lại.)

Thị Phương:                 - Quả lòng trời lại đưa lại

                                       Ngọc nhảy vào, mắt được phong quang

                                       Mẹ ơi giờ con trông được rõ ràng

                                       Chồng con đây đã tỏ.

Mụ:                               - Mẹ mừng con đã yên lành như cũ

                                       Lại thêm mẫu tử đoàn viên

                                       Trời có đâu nỡ phụ người hiền

                                       Thế mới biết bĩ rồi lại thái.

(Trích Trương Viên, in trong Tuyển tập chèo cổ, Hà Văn Cầu, NXB Sân khấu, 1999)

Câu 1. Chỉ ra lối nói xuất hiện trong văn bản. 

Câu 2. Chỉ ra một chi tiết kì ảo trong văn bản trên. 

Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của các chỉ dẫn sân khấu trong tác phẩm. 

Câu 4. Trong lời hát của Thị Phương, nàng đã nhắc đến những sự việc nào trong suốt 18 năm lưu lạc?

Câu 5. Ý nghĩa và thông điệp của văn bản trên là gì?

0
Câu 1. (2 điểm)      Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) thuyết phục người khác từ bỏ thói quen mua sắm không kiểm soát trên các sàn thương mại điện tử.  Câu 2. (4 điểm)      Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Thị Phương trong đoạn trích sau: (Tóm tắt: Thời buổi chiến loạn, Thị Phương cùng mẹ chồng phải chạy rừng thẳm để lánh nạn. Mẹ chồng đau ốm, Thị Phương...
Đọc tiếp

Câu 1. (2 điểm)

     Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) thuyết phục người khác từ bỏ thói quen mua sắm không kiểm soát trên các sàn thương mại điện tử. 

Câu 2. (4 điểm)

     Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Thị Phương trong đoạn trích sau:

(Tóm tắt: Thời buổi chiến loạn, Thị Phương cùng mẹ chồng phải chạy rừng thẳm để lánh nạn. Mẹ chồng đau ốm, Thị Phương tình nguyện dâng đôi mắt mình cho thần linh để đổi lấy thuốc cứu mẹ.)

Thị Phương: (Nói sử)  - Trình lạy ông, khoan khoan, rẽ rẽ

                                      Để tôi xin dẫn nỗi sự tình

                                      Ông sinh phúc mở lòng nhân đức

Thần linh:                    - Ta ăn mắt già, không ăn mắt trẻ.

Thị Phương: (Nói sử)  - Mẹ chồng tôi đã bẩy mươi ba

                                      Già mong trẻ để mà trông cậy

                                      Chồng tôi khi ấy

                                      Đi thú nước Xiêm

                                      Vắng mặt khuất tin

                                      Sự nhà không viết

                                      Tử sinh lưỡng biệt

                                      Chồng một nơi, vợ lại một nơi

                                      Ông chẳng thương đến mẹ con tôi

                                      Nguyện thiên địa: tôi xin dâng mắt. 

(Thổ địa ra khoét mắt Thị Phương.)

Thị Phương: (Hát vãn) - Khoét mắt dâng thần

                                      Huyết rơi lai láng cực lòng con thay

                                      Ông hưởng lấy mắt này

                                      Xin ông phù hộ, mẹ tôi rày được bình an

Thần linh: (Nói)           Khen Thị Phương con người có nghĩa lại có nhân

                                      Thương mẹ chồng khoét mắt dâng thần

                                      Tai nạn ấy sau này ắt khỏi

                                      - Truyền thổ địa, hạt điện môn!

                                      [...]

Mụ:                                - Giời ơi, ông ấy khoét mắt con tôi

Thị Phương:                - Mẹ ở đâu, mẹ dắt con với mẹ ơi!

                                      (Hát vãn) Khi xưa con dắt mẹ đi

                                      Bây giờ mù mịt, mẹ thì dắt con

Mụ: (Hát tiếp)               - Có sinh, có đẻ cho cam

                                      Nàng dâu nuôi mẹ thế gian mấy người.

(Trích Trương Viên, in trong Tuyển tập chèo cổ, Hà Văn Cầu, NXB Sân khấu, 1999)

1
2 tháng 12

Câu 1: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) thuyết phục người khác từ bỏ thói quen mua sắm không kiểm soát trên các sàn thương mại điện tử.

Trong thời đại số hiện nay, các sàn thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, mang lại sự tiện lợi trong việc mua sắm. Tuy nhiên, nhiều người lại rơi vào thói quen mua sắm không kiểm soát, khiến bản thân rơi vào tình trạng chi tiêu vượt quá khả năng. Việc này không chỉ gây thiệt hại về tài chính mà còn làm giảm chất lượng cuộc sống. Khi mua sắm không cần thiết, chúng ta sẽ dễ dàng tích lũy những món đồ không sử dụng đến, từ đó lãng phí tiền bạc và không gian sống. Hơn nữa, sự phụ thuộc vào việc mua sắm qua mạng có thể dẫn đến cảm giác thiếu thốn, lo âu, và không kiểm soát được nhu cầu thực sự. Để khắc phục điều này, mỗi người cần tự ý thức về nhu cầu của bản thân, xác định rõ ràng những gì thật sự cần thiết và có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Chỉ khi biết tiết chế và mua sắm có trách nhiệm, chúng ta mới có thể đảm bảo một cuộc sống ổn định, hài hòa về tài chính và tâm lý.

Câu 2: Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Thị Phương trong đoạn trích trên.

Trong văn học Việt Nam, nhân vật Thị Phương trong đoạn trích từ tác phẩm chèo cổ "Trương Viên" của tác giả Hà Văn Cầu là hình mẫu điển hình của người phụ nữ nhân hậu, hi sinh vì gia đình và có tấm lòng vĩ đại. Qua lời nói, hành động và tâm trạng của nhân vật, người đọc có thể cảm nhận được sự hy sinh cao cả và tình thương yêu vô bờ của Thị Phương dành cho mẹ chồng trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh loạn lạc.

Trước hết, Thị Phương là một người phụ nữ hết lòng vì gia đình. Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, Thị Phương và mẹ chồng phải chạy trốn trong rừng sâu để tránh hiểm nguy. Mẹ chồng của Thị Phương lại bị bệnh nặng, cần thuốc để cứu chữa nhưng trong lúc này, không có cách nào để có được thuốc. Trước tình cảnh đó, Thị Phương đã quyết định hi sinh đôi mắt của mình để dâng lên thần linh, mong thần có thể cứu mẹ chồng khỏi bệnh tật. Hành động này cho thấy sự hi sinh vô điều kiện của Thị Phương đối với gia đình, thể hiện một tình yêu thương sâu sắc đối với mẹ chồng, mặc dù mẹ chồng là người không phải sinh thành ra mình. Điều này càng chứng tỏ phẩm chất cao đẹp và lòng nhân ái của Thị Phương.

Ngoài sự hi sinh, Thị Phương còn thể hiện sự kiên cường, dũng cảm trong việc đối mặt với thử thách. Khi Thị Phương nói với thần linh về tình trạng khổ sở của mẹ chồng, từ sự mong mỏi của người phụ nữ này, ta thấy được sự quyết tâm mạnh mẽ và niềm tin vào phép màu. Dù biết mình phải chịu đau đớn, mất mát lớn lao, nhưng Thị Phương vẫn dũng cảm đối diện và không hề lùi bước. Trong cảnh này, nhân vật Thị Phương không chỉ là người con dâu hiếu thảo mà còn là hình mẫu của sự vững vàng và kiên định.

Mối quan hệ giữa Thị Phương và thần linh cũng là một điểm đặc biệt trong đoạn trích. Thị Phương không chỉ cầu xin thần linh mà còn có những lời van xin rất chân thành, tha thiết, trong đó không thiếu sự khẩn cầu đầy cảm động. Câu nói “Mẹ chồng tôi đã bẩy mươi ba, già mong trẻ để mà trông cậy” không chỉ cho thấy lòng hiếu thảo mà còn phản ánh được tâm trạng của một người phụ nữ lo lắng cho tương lai của gia đình mình. Thị Phương không chỉ là hình mẫu của lòng hiếu thảo mà còn là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh – những người âm thầm hy sinh, gánh vác mọi khó khăn, gian khổ để bảo vệ gia đình.

Hành động dâng mắt của Thị Phương tuy đau đớn và tàn nhẫn, nhưng cũng thể hiện một lòng kiên nhẫn và sự chịu đựng tột cùng. Hình ảnh Thị Phương bị khoét mắt, cùng với những lời ca “Khoét mắt dâng thần, huyết rơi lai láng cực lòng con thay” khiến người xem không khỏi xúc động trước tình yêu thương vô bờ bến mà cô dành cho mẹ chồng. Dù phải trả giá bằng đôi mắt của mình, Thị Phương vẫn hy vọng vào sự bảo vệ của thần linh để mẹ chồng khỏi nguy hiểm, dù sự hy sinh ấy mang đậm sự bi thương và đau đớn.

Cuối cùng, qua hình ảnh Thị Phương, tác giả muốn gửi gắm thông điệp về lòng hy sinh, về tình yêu thương gia đình và lòng kiên cường của người phụ nữ trong hoàn cảnh chiến tranh. Thị Phương không chỉ là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam thời chiến mà còn là hình mẫu lý tưởng của những giá trị nhân văn, sự hi sinh vì người thân trong mọi hoàn cảnh, dù có phải đối diện với gian khổ và mất mát.

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  Cột cờ Hà Nội - biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến   Ảnh: Cột cờ Hà Nội       Cột cờ Hà Nội       Cột cờ Hà Nội được xây dựng xong từ năm 1812 vào thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long. Trải qua hơn 200 năm in dấu và “sống” cùng những thăng trầm của mảnh đất Thủ đô ngàn...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Cột cờ Hà Nội - biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến

Ngữ văn 10, Văn bản thông tin, olm 

Ảnh: Cột cờ Hà Nội

      Cột cờ Hà Nội

      Cột cờ Hà Nội được xây dựng xong từ năm 1812 vào thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long. Trải qua hơn 200 năm in dấu và “sống” cùng những thăng trầm của mảnh đất Thủ đô ngàn năm văn hiến, những phần hư hỏng của Cột cờ đã được trùng tu lại, nhưng vẫn giữ được hiện trạng ban đầu. Và Cột cờ Hà Nội hiện nay là công trình còn nguyên vẹn và hoành tráng nhất trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long. 

      Cột cờ Hà Nội trước đây còn có tên gọi Kỳ đài Hà Nội. Thời nhà Nguyễn, Kỳ đài còn có chức năng là vọng canh, vì theo trục bắc-nam, kiến trúc này chỉ cách Đoan Môn khoảng 300m, cách điện Kính Thiên 500m và cách cửa Bắc chừng gần 1.000m. Từ trên đỉnh của kỳ đài có thể quan sát cả một vùng khá rộng trong và ngoài khu thành cổ.

      Nhìn tổng thể cột cờ gồm những khối lăng trụ xếp chồng nhau, cao thót dần từ dưới lên trên. Bố cục cân đối ấy đã tạo những đường nét thẳng, khoẻ khoắn, vững vàng. Đứng dưới chân cột cờ, dù cảm thấy đỉnh cao ngất, nhưng không hề có cảm giác nặng nề, mà trái lại, dáng vẻ của nó hài hoà, thanh thoát giữa các tam cấp, thân cột và vọng canh. Ở mỗi cấp, tường xây được trang trí bằng những hoa văn khác nhau, tuy đơn giản nhưng lại tạo ra những đường nét mềm mại và mang vẻ đẹp riêng cho từng cấp.

      Công trình kiến trúc cổ kính này được xây dựng bao gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch. Tầng một, mỗi chiều dài 42,5m; cao 3,1m có 2 cầu thang bằng gạch cổ dẫn lên. Tầng hai, mỗi chiều dài 27m; cao 3,7m có 4 cửa thông gió, cửa hướng Đông trên có đắp hai chữ “Nghênh Húc” (đón ánh sáng ban mai), cửa Tây với hai chữ “Hồi Quang” (ánh sáng phản chiếu), cửa Nam với hai chữ “Hướng Minh” (hướng về ánh sáng), cửa Bắc không đề chữ. Tầng ba, mỗi chiều dài 12,8m; cao 5,1m, có cửa lên cầu thang trông về hướng Bắc. Ở cửa hướng bắc được bố trí hai cầu thang lên sân thượng phía bên phải và trái, mỗi cầu thang gồm 14 bậc, có tay vịn bằng sắt. Sân thượng được bao quanh bằng lan can gỗ cùng với tường hoa trổ những hình lục giác có hình vuông ở giữa, được đan lồng với nhau trông tựa hình mạng nhện. 

      Trên tầng này là phần thân của cột cờ, cao 18,2m; hình trụ 8 cạnh, thon dần lên trên, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân có 54 bậc cầu thang xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Toàn thể được soi sáng (và thông hơi) bằng 39 lỗ hình hoa thị và 6 lỗ hình dẻ quạt. Những lỗ này được đặt dọc các mặt, mỗi mặt có từ 4 đến 5 lỗ. Nhờ có các lỗ thông hơi chạy xung quanh thân cột nên ánh sáng tự nhiên và không khí lúc nào cũng được thông thoáng.

      Đỉnh Cột Cờ (Vọng canh) được cấu tạo thành một cái lầu hình bát giác, cao 3,3m, có 8 cửa sổ tương ứng với tám mặt, có thể đủ cho 5-6 người đứng quan sát. Giữa lầu là một trụ tròn, đường kính 0,4m, cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ (cán cờ cao 8m). Phần mái giống như hình nón đội, xương mái làm bằng bê tông cốt thép, lợp ngói và giữa đỉnh mái có cột sắt cùng với ròng rọc để treo cờ.

      Toàn bộ cột cờ cao 33,4m, nếu kể cả cán cờ là 41,4m. Điều đặc biệt của cột cờ là giữa những ngày Hà Nội nóng nhất, nhiệt độ bên trong cột cờ vẫn luôn mát mẻ như có máy lạnh. Hơn nữa, kết cấu các cửa lên xuống của cột cờ được xây dựng rất khoa học, mỗi khi trời mưa to, nước cũng không thể chảy vào trong lòng tháp.

      Biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến

      Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên được treo lên Cột cờ Hà Nội. Chính vì vậy, khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, hình ảnh Cột cờ Hà Nội đã được in trang trọng trên đồng tiền được phát hành đầu tiên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

      Đến ngày 10-10-1954, Hà Nội tưng bừng rạo rực chào đón ngày hội lớn - ngày Thủ đô Hà Nội hoàn toàn được giải phóng. Cả Hà Nội dồn về cột cờ chờ đón giây phút lịch sử: Lễ thượng cờ Tổ quốc trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Đúng 15 giờ, khi còi Nhà hát Thành phố nổi lên, Đoàn quân nhạc cử Quốc ca, cờ Tổ quốc - lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên theo nhịp khúc quân hành. Lần đầu tiên sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cờ Tổ quốc lại tung bay hiên ngang trên bầu trời lộng gió của thủ đô Hà Nội. 

      Giờ đây, Cột cờ Hà Nội là một điểm du lịch không thể bỏ qua trong hành trình khám phá lịch sử đất Hà Thành. Theo thống kê của Ban Quản lý Khu di tích Cột cờ - Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, mỗi ngày có 1.000 - 2.000 du khách đến thăm quan cụm di tích (Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam và Cột cờ Hà Nội) này. Điểm di tích này mở cửa tất cả các ngày trong tuần, trừ thứ hai và thứ năm đóng cửa để bảo dưỡng. 

      Hơn 60 năm qua, gắn trên đỉnh Cột cờ Hà Nội là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh tung bay trên nền trời của Thủ đô, mãi mãi là biểu tượng vinh quang, là niềm tự hào của dân tộc, đất nước Việt Nam độc lập, tự do.

      Được khởi công xây dựng từ năm 1805 và hoàn thành vào năm 1812, cột cờ Hà Nội là một trong những công trình kiến trúc làm nên dáng vóc của Hà Nội thời bấy giờ. Đến nay, cột cờ Hà Nội không chỉ là một biểu tượng hùng thiêng của Thủ đô, mà còn là một điểm đến du lịch không thể bỏ qua của Hà Thành. Năm 1989, cột cờ Hà Nội được công nhận là di tích lịch sử và thu hút được nhiều du khách tới thăm quan khi đến với Hà Nội. 

Lan Khanh (tổng hợp) 

Câu 1. Văn bản trên giới thiệu về danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử nào?

Câu 2. Nhan đề của văn bản thể hiện sự đánh giá như thế nào về Cột cờ Hà Nội?

Câu 3. Các đề mục nhỏ và nội dung của văn bản đã triển khai vấn đề được đưa ra ở nhan đề như thế nào? 

Câu 4. Theo em, vì sao văn bản Cột cờ Hà Nội - biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến lại được coi là văn bản thông tin tổng hợp?

Câu 5. Phân tích tác dụng của các phương tiện phi ngôn ngữ trong văn bản. 

0