BỨC TRANH
Nguyễn Minh Châu
Lược dẫn: Khoảng tám năm trước, nhân vật “tôi” – là một người họa sĩ – đã từ chối vẽ một bức tranh chân dung cho anh chiến sĩ. Sau một lần được anh chiến sĩ giúp “thồ” tranh, người họa sĩ đồng ý vẽ cho anh một bức tranh và hứa sẽ đưa tận tay bức kí họa này tới người mẹ đáng thương nơi quê nhà. “Bức tranh truyền thần” ấy trở thành một tác phẩm hội họa nổi tiếng, nhưng người họa sĩ đã quên lời hứa năm nào. Người mẹ khóc vì thương nhớ con nên mù lòa. Tám năm sau, trong một lần đi cắt tóc, người họa sĩ nhận ra anh chiến sĩ năm nào.
[…] Cặp mắt anh lại đang nhìn xói vào cái mặt tôi đang được bàn tay anh dằn ngửa ra. Da mặt tôi cứ dày lên. Tôi nhắm mắt, rồi mở mắt. Mỗi lúc mở mắt, tôi không thể nhìn đi đâu khác cặp mắt anh. Trời ơi, có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã một nửa thế kỷ? Chốc nữa, sắp tới, anh sẽ làm gì tôi đây?
- Đồ dối trá, mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã lòa cả hai mắt kia! Bây giờ thì tấm hình tao đã được trưng trên các tạp chí hội họa của khắp các nước. Người ta đã trân trọng ghi tên mày bên dưới, bên cạnh mấy chữ: "Chân dung chiến sĩ Giải phóng". Thật là danh tiếng quá!
- Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần, công việc, người nghệ sĩ là phục vụ cả một số đông người, chứ không phải chỉ phục vụ một người! Anh chỉ là một cá nhân, với một cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn. Anh đã thấy đấy, bức "Chân dung chiến sĩ Giải phóng" đã đóng góp đôi chút vào công việc làm cho thế giới hiểu cuộc kháng chiến của chúng ta thêm?
“A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả... Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi. Anh cút đi!”
[…] Một bận đến hai ngày liền tôi không thấy anh thợ của tôi làm việc. Cái quán cắt tóc bỏ vắng hai ngày liền. Sang ngày thứ ba vẫn thế. Và lại thấy một người đàn bà ra dọn dẹp chứ không phải bà cụ già lòa như mọi ngày. Tôi chạy sang. Chiếc ghế cắt tóc không còn nữa. Chỉ còn chiếc gương và mấy cái chai lọ. Người đàn bà hỏi tôi:
- Bác đến cắt tóc?
- Vâng.
- Nhà em mấy hôm nay đang dọn cái chỗ làm mới ở phố ngoài kia. Ngày mai xong. Xin mời bác đến.
Vợ anh có vẻ trạc tuổi gần ba mươi. Một khuôn mặt đàn bà hiền lành. Chị vừa nói vừa bóc tấm tranh của tôi ra. Tôi gợi chuyện:
- Bức tranh đẹp đấy chứ, chị nhỉ?
Người đàn bà hơi đỏ mặt, cuốn tấm tranh lại một cách cẩn thận. Lâu sau mới đáp:
- Anh nhà tôi bảo: Anh bộ đội trong tờ tranh này chính là người ta vẽ anh ấy. Hồi anh ấy còn ở bộ đội trong B. Cho nên mới mua về treo.
- Anh ấy nói với chị thế?
- Vâng.
- Hôm trước tôi đến cắt tóc ở đây có thấy một bà cụ...
- Là mẹ anh nhà tôi. Thế ra bác là khách quen?
- Vâng. Bà cụ bị tật lâu chưa?
- Thưa đã lâu. Đã tám chín năm nay.
- Vì sao?
- Bà cụ lòa đi cũng vì anh nhà tôi. Ngày đó bỗng nhiên có tin ra anh nhà tôi hy sinh. Bà cụ đâm ốm. Anh ấy là con một. Bà cụ nhớ anh ấy, nửa đêm cũng trở dậy đi lang thang. Cứ khóc hoài...
- Bà cụ lòa từ năm nào, chị biết không?
- Từ 69.
- Từ tháng mấy?
- Tôi cũng không nhớ thật rõ, có lẽ khoảng giữa năm.
Tôi ra đến Hà Nội vào đầu tháng Ba năm ấy. Nếu tôi là một người tử tế ra thì không khéo bà cụ không bị lòa, không những thế mà tôi còn có thể làm cho bà cụ khỏe ra? Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù lòa?
[…] Tôi quyết định phải trở lại cái quán kia. Tôi quyết định phải chường cái mặt mình ra, chứ không được lẩn tránh. Tôi không cho phép tôi chạy trốn. Tôi quyết định phải trở lại đấy vào buổi sáng, và đến thật sớm, lúc chỉ có tôi và anh. Để cho anh có hoàn cảnh thuận tiện chỉ vào cái mặt tôi mà hỏi: “Bác là cái nhà ông họa sĩ ngày xưa đấy ư? Bác đã làm cho bà mẹ tôi khóc hết nước mắt để trở thành mù lòa như thế kia? Được rồi, vậy thì xin mời ngồi vào đây!”
[...] Bà cụ lại ngước mắt lên nhìn tôi như lần trước khuôn mặt đờ đẫn và hoan hỉ:
- Thưa ông đến cắt tóc?
- Vâng ạ!
[…] Anh thợ cắt tóc nghe mẹ lên tiếng mới quay người lại. Tôi vừa kịp nhận ra được từ nơi cặp mắt vẫn còn trẻ của anh chiếu thẳng về phía tôi một cái nhìn ban đầu xoi mói, ngạc nhiên, rồi hơi nghiêm mặt lại. Nhưng những diễn biến phản ứng trên cái mặt người thợ chỉ diễn ra nhanh như một cái chớp mắt. Ngay sau đó anh lại trở lại cái vẻ mặt và cử chỉ từ tốn, điềm đạm, ân cần của một người thợ cắt tóc đứng đắn và yêu nghề.
Da mặt tôi tự nhiên dày cộm lên.
- Mời bác ngồi!
Tôi cố trấn tĩnh để khỏi run lập cập, bước tới ngồi vào cái ghế gỗ như một cái ghế tra điện.
- Bác vẫn cắt như cũ?
- Vâng.
[…] “Lần này anh lại đối xử với tôi như lần trước đây?”
“Phải.”
“Anh cũng không trách mắng, chỉ trán chỉ mặt tôi?”
“Không! Anh cứ yên tâm. Trước sau tôi vẫn coi anh là một nghệ sĩ tài năng, đã có nhiều cống hiến cho xã hội.”
“Anh nhận ra tôi từ lúc nào, trong mấy lần tôi đến đây?”
“Tôi vẫn thường gặp mặt anh ở ngoài đường luôn luôn đấy chứ! Một lần tôi đến xem phòng trưng bày tranh của anh. Một lần khác, tôi đi theo mấy người bạn làm xưởng vô tuyến truyền hình đến quay chỗ xưởng làm việc và gian phòng riêng của anh. Anh không nhận ra được tôi đấy mà thôi!”
“Bây giờ anh nói với tôi một điều gì đi, khuyên tôi một nhời đi!”
“Không.”
“Tôi có phải cút khỏi đây không?”
“Không. Anh cứ đến đây. Tôi cắt cho anh kỹ lắm, anh biết đấy!”
[…] Gần nửa năm, tôi đã để vào bức tranh sơn dầu tất cả công sức và sự suy nghĩ, và trong suốt thời gian ấy, một đôi lần tôi cũng gợi lại chuyện cũ, nhưng người thợ vẫn một mực cố tỏ ra chưa hề có bao giờ quen biết tôi. Trở về làm một anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy, để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm. Lời đề nghị rụt rè của anh: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.
(Trích truyện ngắn Bức tranh, Nguyễn Minh Châu, tập Nguyễn Minh Châu – Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn học, 2009, tr.128-135)
Nguyệt xuất hiện thông qua lời kể của một người lính lái xe tên là Lãm, người có chị gái tên là Tính là một nữ công nhân ở công trường cầu Đá Xanh. Chị đã làm mai mối cho Lãm với một cô gái tên là Nguyệt mà chị rất ưng bụng cho làm em dâu. Thế nhưng vì chiến tranh, vì mỗi người đều có một nhiệm vụ khác nhau mà Lãm và Nguyệt chưa từng có một lần "xem mặt" chính thức. Bẵng đi cả một thời gian mấy năm trời, thậm chí đến bản thân Lãm cũng sắp quên cái việc mối mai này thì bất ngờ trong một chuyến xe đi qua cầu Đá Xanh, anh lái phụ "vượt quyền" cho một cô gái đi nhờ. Lãm chính thức gặp mặt Nguyệt, cô gái mà vốn trước đó đọc thư của chị Tính anh đã rất cảm động vì sự đợi chờ của nàng dành cho mình suốt mấy năm trời đằng đẵng, dù chưa một lần gặp mặt. Ban đầu bản thân nhân vật Lãm không hề biết cô gái anh gặp là Nguyệt, người anh dự định sau chuyến xe này sẽ đến thăm. Ngoại hình của nhân vật Nguyệt được Nguyễn Minh Châu dựng lên một cách thật ý nhị và hấp dẫn, độc giả nhận ra vẻ đẹp của cô gái đầu tiên không phải là từ khuôn mặt mà ấy là từ đôi chân "một đôi gót chân hồng hồng sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ, gấu quần lụa đen chấm mắt cá". Sự đẹp đẽ chỉn chu đến tận gót chân ấy đã cho người đọc một cảm nhận rằng Nguyệt là cô gái rất tinh tế, tỉ mỉ và biết cách chăm sóc bản thân, dẫu lỡ như khuôn mặt cô không xinh đẹp đi chăng nữa, thì cũng ắt là người duyên dáng, dịu dàng. Khi nhân vật Lãm từ gầm xe lên, chính thức chạm mặt Nguyệt anh đã ấn tượng với cô bởi "một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, giọng nói và tấm thân mảnh dẻ", lại "mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dài tết thành hai dải. Chiếc làn và chiếc nón mới trắng lóa khoác ở cánh tay trông thật nhẹ nhàng". Chỉ từng ấy câu chữ nhưng cũng đủ làm người ta mê say cái vẻ đẹp thơ mộng hiếm có của cô gái, hệt như một bông hoa sen giữa chiến trường khắc nghiệt. Đó là một vẻ đẹp trong ngần, tràn đầy sức sống tươi trẻ của một cô gái độ hai mươi tuổi đầu, một vẻ đẹp hiếm có giữa hàng ngàn nữ công nhân của ngầm Đá Xanh, thảo nào chị Tính lại sốt ruột giành về cho em trai như thế. Không chỉ ở ngoại hình, đến cả giọng nói hay cử chỉ hành động của Nguyệt cũng thật duyên dáng, yêu kiều biết bao, cô nói chuyện rất kiêng dè, lễ phép và đối đáp mạch lạc với anh lái xe chỉ mới quen. Ở những câu nói của cô gái, người ta thấy được sự trẻ trung, thông minh và sự dịu dàng, đáng yêu ví như việc cô hỏi về chiếc đèn "quả dưa" hay "quả táo", rồi việc cô kể những những cô Nguyệt trong đoàn công nhân một cách thật thà. Hoặc những lúc cô bối rối giải thích về sự lồi lõm của những con đường mà tổ đội cô chịu trách nhiệm tu sửa, san bằng. Bấy nhiêu câu chuyện ấy cũng để thấy được cái tâm hồn trong sáng, chân thật của cô gái trẻ, nó góp thêm vào cái vẻ đẹp như hoa như sương khiến cho chàng chiến sĩ lái xe vốn tự nhận mình là "già đời trong nghề lái xe" bâng khuâng đến độ nhận nhầm trăng thành pháo sáng. Dẫu thoải mái, vô tư và hồn nhiên, nhưng người ta vẫn thấy ở Nguyệt tính cách e lệ, giữ kẽ của một thiếu nữ chưa chồng, cô cố ý ngồi sát mép cửa, chiếc làn ôm gọn trong lòng, để lại giữa Lãm và cô một khoảng trống lớn, đồng thời không quên ngắm trong buồng xe bằng một cặp mắt rụt rè và tò mò. Không chỉ như vậy, ở Nguyệt ta còn thấy một sự tự tin và lòng nhiệt thành toát lên từ tâm hồn, gặp đoạn đường khó đi và tối cô động viên anh lính lái xe bằng câu "Anh cứ yên tâm, đoạn đường này em quen lắm". Và đúng là cô quen thật, Nguyệt liên tục chỉ lối cho Lãm lái xe, thỉnh thoảng có đoạn bánh trước sục xuống rãnh sâu quá cô phải xuống "xi nhan" cho anh kéo lên. Vốn dĩ cô gái sẽ xuống xe trước khi qua sông, thế nhưng với tấm lòng nhiệt tình "anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư", cô quyết giúp đỡ anh lội qua con sông tối om, nguy hiểm này. Cũng từ đây một vẻ đẹp khác của Nguyệt dần hiện ra trước mắt độc giả, sự lanh lẹ, kiên cường, dũng cảm và thông mitrong chiến đấu.