K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

                                              ĐỀ 2Phần I: Đọc hiểu (3.0 điểm)Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu câu dưới đây:Jonathan, một người có bộ óc thông minh, nhanh nhạy trong những phân tích về tình hình kinh tế, ông sống và làm việc hết sức chăm chỉ. HiệnJonathan đang là một tỉ phú. Và Authur cũng là một người có trí thông minh không kém, chỉ cần ba mươi phút để giải ô chữ của tờ NewYork Times, phân...
Đọc tiếp

                                              ĐỀ 2
Phần I: Đọc hiểu (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu câu dưới đây:
Jonathan, một người có bộ óc thông minh, nhanh nhạy trong những phân tích về tình hình kinh tế, ông sống và làm việc hết sức chăm chỉ. HiệnJonathan đang là một tỉ phú. Và Authur cũng là một người có trí thông minh không kém, chỉ cần ba mươi phút để giải ô chữ của tờ NewYork Times, phân tích tình hình kinh tế Mĩ Latinh trong vòng nửa giờ và tính nhẩm nhanh hơn hầu hết mọi người dù họ có dùng máy tính. Nhưng hiện giờ, Authur đang là tài xế của Jonathan. Điều gì giúp Jonathan đường hoàng ngồi ở băng ghế sau của xe limousine còn Authur thì ở phía trước cầm lái? Điều gì phân chia mức độ thành đạt của họ? Điều gì giải thích sự khác biệt giữa thành công và thất bại?
Câu trả lời nằm trong khuôn khổ một cuộc nghiên cứu của trường đại học Standford. Những nhà nghiên cứu tập hợp thật đông những trẻ em từ 4 đến 6 tuổi, sau đó đưa chúng vào một căn phòng và mỗi em được phát một viên kẹo. Chúng được giao ước: có thể ăn viên kẹo ngay lập tức hoặc chờ thêm mười lăm phút nữa sẽ được thưởng thêm một viên kẹo cho sự chờ đợi. Một vài em ăn kẹo ngay lúc đó. Những em khác thì cố chờ đợi để có phần kẹo nhiều hơn. Nhưng ý nghĩa thực sự của cuộc nghiên cứu chỉ đến mười năm sau đó, qua điều tra và theo dõi sự trưởng thành của các em. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những đứa trẻ kiên trì chờ đợi phần thưởng đã trưởng thành và thành đạt hơn so với những trẻ vội ăn ngay viên kẹo.

Điều đó được giải thích ra sao? Điểm khác biệt mấu chốt giữa thành công và thất bại không chỉ đơn thuân là làm việc chăm chỉ hay sở hữu bộ óc của thiên tài mà đó chính là khả năng trì hoãn những mong muốn tức thời.
Những người kiêm chế được sự cám dỗ của “những viên kẹo ngọt" trên đường đời thường vươn tới đỉnh cao thành công. Ngược lại, những ai vội ăn hết phần kẹo mình đang có thì sớm hay muộn cũng sẽ rơi vào cảnh thiếu thốn, cùng kiệt. (...) Có thể nói, cuộc đời như một viên kẹo thơm ngọt, nhưng khi nào thưởng thức và thưởng thức nó như thế nào thì đó là điêu
chúng ta phải tìm hiểu.
(Joachim de Posada & Ellen Singer - Không theo lối mòn, NXB Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, 2016, tr.03)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên. (0.5 điểm)
Câu 2: Theo tác giả, điểm khác biệt mấu chốt giữa thành công và thất bại là gì? (0.5 điểm)
Câu 3: Anh/chị hiểu như thế nào về hình ảnh “những viên kẹo ngọt"? (1.0 điểm)
Câu 4: Anh/chị có đồng tình khi tác giả cho rằng “Những người kiêm chế được sự cám dỗ của “những viên kẹo ngọt" trên đường đời thường vươn tới đỉnh cao thành công" không? Vì sao? (1.0 điểm)

1
26 tháng 2 2022

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên. (0.5 điểm)

=> nghị luận về đời xống xh
Câu 2: Theo tác giả, điểm khác biệt mấu chốt giữa thành công và thất bại là gì? (0.5 điểm)

=> phải có khả năng trì hoãn những mong muốn tức thời,phải biết kiên trì nhẫn nại thì mới có thể thành côg sau này.
Câu 3: Anh/chị hiểu như thế nào về hình ảnh “những viên kẹo ngọt"? (1.0 điểm)

=> là phương pháp ẩn dụ của tác giả :'' những viên kẹo ngọt'' ở đây là những cám dỗ sung sướng trong cuộc sống khiến ta lúng chìm trong đó khi nào không hay , là vinh hoa phú quý là tài lộc mang đến cho ta sự ngọt ngào .Nhưng đó là con dao 2 lưỡi khiến ta thất bại trong cuộc sống,
Câu 4: Anh/chị có đồng tình khi tác giả cho rằng “Những người kiêm chế được sự cám dỗ của “những viên kẹo ngọt" trên đường đời thường vươn tới đỉnh cao thành công" không? Vì sao? (1.0 điểm)

Đồng tình vì cuộc đời có thể như viên kẹo thơm ngọt nhưng cũng có thể như viên thuốc đắng, quan trọng là thái độ ứng phó với cám dỗ cũng như trở ngại để vươn tới thành công.Những ai kiềm chế được cái khó nhất này rồi thì không việc gì mà không thành công được.

25 tháng 2 2022

Tham khảo:

 

Nguyễn Trãi (1380-1442) là nhà chính trị nổi tiếng. Ông đỗ Thái học sinh và ra làm quan dưới thời Hồ. Tuy gia thế hiển hách- mẹ là con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, cha là Nguyễn Ứng Long cũng làm quan lớn dưới triều nhà Trần nhưng Nguyễn Trãi sớm chịu nhừng mất mát đau thương: tang mẹ lúc 5 tuổi, sau đó ông ngoại qua đời khi Nguyễn Trãi mới 10 tuổi. Sau khi đỗ Thái học sinh, ông cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ.

Năm 1407, giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha ông bi bắt sang TQ, Nguyễn Trãi trốn thoát về đầu quân cho Lê Lợi. Tùy là người trung thành nhưng vì “ nợ nước, thù nhà” ông đành làm kẻ phản chủ. Dưới sự giúp đỡ của Nguyễn Trãi, quân Lam Sơn giành được thắng lợi. Ông hăm hở giúp vua việc nước nhưng bị gian thần ghen ghét, bị nghi ngờ, không được tin dùng nhiều. Năm 1439, NGuyễn Trãi xin về ở ẩn, nhưng đến 1440, vua trẻ Lê Thái Tông lại mời ông ra giúp nước. Năm 1442, nhà vua đi duyệt võ ở Chí Linh, có ghé thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, rồi đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi bị gian thần vu cho tội giết vua và bị xử án tru di tam tộc.

Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, tìm con cháu, sưu tầm lại thơ văn của ông và khẳng định nhân cách, tấm lòng, tâm hồn lớn của Nguyễn Trãi với câu nói nổi tiếng “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.

Nguyễn Trãi còn là một nhà văn, nhà thơ tài ba. Ông là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học cả ở lĩnh vực chữ Hán và chữ Nôm . Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó là “Đại cáo bình Ngô”, “Quân trung từ mệnh tập”, “Lam Sơn thực lục”, “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”,…

Nguyễn trãi- nhà văn chính luận kiệt xuất. Với tác phẩm “ Bình Ngô Đại Cáo” được coi là bản tiên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi có luận điểm vững chắc, lập luận sắc bén, giọng điệu linh hoạt. Trong đó luận điểm cơ bản cốt lõi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chật chẽ, lập luân sắc bén.

Ông còn là nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ ông bộc lộ tâm hồn, con người ông từ khía cạnh bình thường, trần thế hòa quyện với con người anh hùng vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Trãi, ta thấy những nỗi ưu tư trăn trở về dân về nước, thấy được khí tiết thanh cao, lòng yêu thiên nhiên cây cỏ của ông.

Nguyễn Trãi được coi là một thiên tài văn học, văn chương của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo. Ông đem đến cho nền văn học dân tộc thơ Đường luật viết bằng chữ Nôm, gốm phần làm cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học giàu va đẹp. Năm 1980,Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục , Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

25 tháng 2 2022
Thuyết minh về Nguyễn Trãi 

Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam thường được biết đến với vai trò là một tác gia nổi tiếng với nhiều tác phẩm thuộc các lĩnh vực khác nhau, mà ở bất cứ lĩnh vực nào ông cũng để lại những dấu ấn riêng biệt với nhiều tác phẩm xuất sắc. Đồng thời trong lịch sử Việt Nam Nguyễn Trãi còn là một nhà chính trị quân sự lỗi lạc và tài ba, với học vấn uyên thâm, tầm nhìn xa trông rộng, lòng yêu nước sâu sắc, Nguyễn Trãi đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, trở thành bậc khai quốc công thần đời đầu của triều Hậu Lê. Tuy nhiên bản thân Nguyễn Trãi dù đã lập nhiều công lao, đóng góp xây dựng đất nước nhiều năm thế nhưng lại phải chịu một kết cục thê thảm, liên lụy tam tộc, mà cho đến ngày nay các sử gia vẫn nhiều lần tranh cãi về sự kiện mang tên án oan Lệ Chi viên còn nhiều bí ẩn này.

 

Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau đó gia đình ông dời đến ở Định Khê, Thường Tín, Hà Nội. Ông vốn xuất thân trong một gia đình danh giá, cả hai bên họ nội ngoại đều có truyền thống khoa cử, văn học, truyền thống yêu nước và có chức tước nhiều đời, chính vì thế ngay từ thuở nhỏ Nguyễn Trãi đã được hưởng một nền giáo dục tốt đẹp, trở thành căn cơ cho sự nghiệp của ông sau này. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long (sau đổi thành Nguyễn Phi Khanh) là một nho sĩ hay, từng đỗ Thái học sinh và ra làm quan dưới triều Trần, mẹ ông là bà Trần Thị Thái con gái thứ ba của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Tuy nhiên, cuộc đời Nguyễn Trãi dù có vẻ là trải gấm hoa nhưng thực tế rằng ngay từ thuở nhỏ ông đã chịu nhiều mất mát đau thương, lúc vừa lên 5 tuổi thì mẹ ông bệnh mất, cha ông không đi tiếp bước nữa mà lặng lẽ một mình nuôi dưỡng các con. Đến năm 10 tuổi thì ông ngoại tức Tư đồ Trần Nguyên Đán người thân thiết và có nhiều ảnh hưởng đến cuộc đời Nguyễn Trãi cũng qua đời, để lại cho ông nhiều tiếc nuối. Nhưng không dừng lại ở đó, năm 1400 sau khi đã thi đỗ Thái học sinh dưới triều Hồ, hai cha con Nguyễn Trãi lập chí cùng phụng sự triều đại mới, thì biến cố xảy ra. Năm 1407, nhà Minh mượn cớ nhà Hồ lên ngôi bất chính, dẫn quân sang đàn áp, nhà Hồ sụp đổ, bản thân Nguyễn Phi Khanh bị giặc áp giải về Trung Quốc. Nguyễn Trãi muốn đi theo để tận hiếu, thế nhưng cha ông đã khuyên ông nên ở lại tìm cách báo thù rửa nhục cho đất nước và cho cha. Nguyễn Trãi vâng lệnh cha và từ biệt thân phụ ông tại ải Nam Quan, lần chia tay này cũng là lần cuối ông gặp mặt cha mình. Nguyễn Trãi quay về được Trương Phụ, viên quan nhà Minh chiêu dụ cho ra làm quan, nhưng với tấm lòng yêu nước và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, Nguyễn Trãi kiên quyết không cam chịu đầu hàng giặc. Điều này khiến Trương Phụ tức giận toan giết Nguyễn Trãi đề phòng hậu họa, thế nhưng Thượng thư Hoàng Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, nên tha chết cho ông và giam lỏng ông ở thành Đông Quan suốt 10 năm trời. Trong khoảng thời gian đằng đẵng đó, không rõ Nguyễn Trãi đã làm những gì, thế nhưng truyền rằng Nguyễn Trãi vẫn luôn canh cánh trong lòng tìm được một minh quân để phò tá, dẹp giặc Minh cứu nước. Và có lẽ rằng từ lâu đã nghe tiếng Lê Lợi thế nên Nguyễn Trãi đã tìm cách trốn khỏi thành Đông Quan và về dưới trướng của Lê Lợi, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành một vị quân sư tài ba, giỏi thao lược, có nhiều đóng góp to lớn cho sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, cũng như việc xây dựng một triều đại mới - triều Hậu Lê. Sau khi đại thắng giặc Minh, cuối năm 1427 đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô Đại cáo, đây được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của Đại Việt, có ý nghĩa chính trị sâu sắc, tuyên bố chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn trước 15 vạn đại quân Minh, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập và tự chủ cho đất nước, khẳng định sức mạnh, ý chí dân tộc ta trước giặc ngoại xâm. Tuy nhiên nhà Hậu Lê vừa thành lập không bao lâu, căn cơ còn chưa vững chắc thì Lê Thái Tổ băng hà, triều đình lâm vào khủng hoảng, với những mâu thuẫn nội bộ sâu sắc, hàng loạt các bậc khai quốc công thần đời đầu bị nghi kỵ, cho là có ý chuyên quyền, công cao chấn chủ, và bị thất sủng, trong đó có Nguyễn Trãi, bản thân ông đã không được tin dùng trong suốt 10 năm trời. Điều này khiến Nguyễn Trãi chán nản, bất đắc chí nên xin về ở ẩn tại Côn Sơn vào năm 1438. Đến năm 1439, vua Lê Thái Tông lại có ý mời ông ra giúp nước, Nguyễn Trãi thấy bản thân lại được vua tín nhiệm, thì vui mừng, dành nhiều tâm sức phụng sự đất nước, hăng hái tham gia các công cuộc kiến thiết, xây dựng hoàn thiện thể chế triều đình. Nhưng thật không may rằng, lần quay lại và được vua tin dùng này của ông đã dẫn gia đình ông đến một kết cục không thể vãn hồi. Trong lần đi tuần của Lê Thái Tông ở miền đông, Nguyễn Trãi đã mời vua vào nơi ở ẩn của mình tại Côn Sơn nghỉ ngơi, và cho người thiếp là Nguyễn Thị Lộ vào hầu vua. Không ngờ rằng vua chết bất đắc kỳ tử khi mới 21 tuổi, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bị khép vào tội giết vua, phải chịu án tru di tam tộc, ngày nay người ta vẫn gọi là thảm án Lệ Chi viên, kết thúc cuộc đời nhiều vẻ vang nhưng cũng lắm thăng trầm của một danh nhân văn hóa thế giới.

 

Bên cạnh sự nghiệp chính trị, quân sự, thì Nguyễn Trãi được biết đến nhiều hơn cả là một bậc kỳ tài có am hiểu trong nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng có những tác phẩm đạt đến trình độ xuất sắc mà ở đó một số đã trở thành mẫu mực, có ý nghĩa tham khảo, nghiên cứu cho các thế hệ về sau. Về phương diện lịch sử, Nguyễn Trãi đã để lại các tác phẩm là Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia kể về thân thế và sự nghiệp của vua Lê Thái Tổ. Tác phẩm thứ hai là Lam Sơn thực lục, kể về cuộc khởi nghĩa hơn 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn. Ngoài ra còn có Chí Linh sơn phú kể về chuyện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba năm 1422, và Băng Hồ di sự lục viết về cuộc đời của Tư đồ Trần Nguyên Đán. Về địa lý, Nguyễn Trãi cũng để lại một cuốn Dư địa chí hay còn gọi với các tên khác như Ức Trai thi tập Nam Việt Dư địa chí, hoặc Lê triều cống pháp. Đây được xem là một bộ sách về địa lý cổ nhất của Việt Nam, ghi chép lại những đặc điểm về sản vật và con người Việt thời trung đại, mà cho đến ngày hôm nay bản thân nó vẫn còn những giá trị tham khảo nhất định. Trong chính trị, quân sự Nguyễn Trãi có các tác phẩm rất nổi tiếng là Bình Ngô Đại cáo và Quân trung từ mệnh tập, ngoài ra còn một số các tác phẩm khác bao gồm các bài biểu, bài chiếu viết dưới hai thời vua Lê. Trong lĩnh vực văn học, Nguyễn Trãi để lại nhiều tập thơ xuất sắc viết bằng chữ Hán và chữ Nôm như Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập.

Và trong sự nghiệp thơ văn của mình Nguyễn Trãi còn được mệnh danh là một nhà văn chính luận kiệt xuất đồng thời là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Trong đó với tư cách là nhà văn chính luận kiệt xuất, các tác phẩm của ông chủ yếu phục vụ cho sự nghiệp chính trị quân sự, gồm các tác phẩm Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần hai, là "áng thiên cổ hùng ca ngàn đời", không chỉ xuất sắc trong cách hành văn lập luận chặt chẽ sâu sắc mà còn đặc biệt với các giá trị nội dung mang tính thời cuộc. Thứ hai là tập Quân trung từ mệnh tập bao gồm các thư từ gửi tướng lĩnh của giặc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, có giá trị như các tài liệu ngoại giao, và các bài văn răn đe tướng sĩ, củng cố tinh thần quân đội. Ngoài ra còn có khoảng 28 tác phẩm biểu, chiếu khác nhau. Với nội dung tư tưởng nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong hầu hết các tác phẩm, kết hợp nghệ thuật lập luận, bố cục chặt chẽ, luận điểm luận cứ linh hoạt, sắc bén. Chính vì vậy nên các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi đều được xem là áng văn chính luận mẫu mực mà người đời sau cần học hỏi.

Với tư cách là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Trãi đã sáng tác rất nhiều tác phẩm có giá trị, tuy nhiên vì hàm oan mà hầu như chúng đều bị thiêu hủy, sau này được minh oan, nhưng số lượng thu thập lại cũng chỉ là một phần nhỏ may mắn còn sót lại. Tuy nhiên với bấy nhiêu những tác phẩm cũng đã đủ để thấy được tài năng kiệt xuất của Nguyễn Trãi trong lĩnh vực thơ ca với những sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó sáng tác chữ Hán hiện còn tập thơ Ức Trai thi tập, sáng tác chữ Nôm hiện còn Quốc m thi tập - tập thơ viết bằng tiếng Việt đầu tiên duy nhất còn sót lại cho đến ngày hôm nay. Nhìn chung các sáng tác thơ của Nguyễn Trãi đều tập trung thể hiện một nội dung chính ấy là con người Nguyễn Trãi với hình ảnh người anh hùng vĩ đại và con người trần thế. Tính anh hùng thể hiện trong tư tưởng xuyên suốt nhiều tác phẩm ấy là lý tưởng yêu nước thương dân, tấm lòng nhân nghĩa, phẩm cách người quân tử thông qua các hình ảnh tượng trưng: tùng, cúc, trúc, mai. Con người trần thế bộc lộ thông qua những tình cảm của nhà thơ như nỗi đau đớn, xót xa trước nghịch cảnh đất nước, trước những trò nham hiểm, trêu ngươi của xã hội, hay tấm lòng yêu thiên nhiên, niềm vui sống cuộc đời thanh tao, giản dị, những tình cảm bạn bè, vua tôi, cha con sâu nặng tha thiết,...

Với những đóng góp to lớn của mình cho đất nước, Nguyễn Trãi thực xứng danh là một trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam với những công trạng huy hoàng và vĩ đại, được khắc ghi trong lịch sử nước nhà. Trong đó có lẽ quý giá nhất phải kể đến tấm lòng yêu nước sâu nặng, lý tưởng nhân nghĩa lấy nhân dân làm đầu, cùng với tài năng trí tuệ trong lĩnh vực ngoại giao quân sự của mình, Nguyễn Trãi đã góp phần rất to lớn vào khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, mở ra một triều đại mới cho dân tộc. Về văn chương, có thể xem Nguyễn Trãi chính là kết tinh tuyệt vời của hai truyền thống văn học Lý - Trần, cắm một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam, thể hiện cả trên hai bình diện là thể loại và ngôn ngữ.

k mik nha bn

25 tháng 2 2022

1. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích là biểu cảm.

2. Trong đoạn trích, nhân vật trữ tình là Thúy Kiều.

3. Những chi tiết diễn tả hình ảnh thiên nhiên trong đoạn trích là: rừng phong thu đã nhuốm màu quan san, mấy ngàn dâu xanh, vầng trăng ai xẻ làm đôi.

4. Quan san là từ để chỉ đường xa, gian nan, hiểm trở. Câu thơ sử dụng hình ảnh quan san để thể hiện tâm tư, tình cảm của con người, diễn tả sự chia li, xa cách, nỗi lo lắng. Đôi lứa vừa chia tay thì khung cảnh đã nhuốm màu biệt ly, cách trở.

5. Hai câu thơ diễn tả sự khắc khoải của người ở lại. Tác giả lấy ngoại cảnh để diễn tả tâm cảnh. Đôi lứa chia cách giống như vầng trăng xẻ làm đôi. Câu thơ như tiếng thở dài ngao ngán trước số phận, trước hạnh phúc tròn đầy, êm ấm bị chia cắt.

6. Tâm trạng của nhân vật trữ tình đầy đau đớn, khắc khoải, cô đơn, buồn tủi.

25 tháng 2 2022

1. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích là biểu cảm.

2. Đoạn thơ trên nhắc đến nhân vật Từ Hải.

3. Những chi tiết trong đoạn trích thể hiện quan niệm sống của nhân vật là "Áo xiêm ràng buộc lấy nhau/ Vào luồn ra cúi công hầu mà chi/ Sao bằng iêng một biên thùy/ Sức này đã dễ làm gì được nhau/ Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai".

4. Phép đối trong câu có tác dụng thể hiện sự coi thường đối với hành động luồn cúi.

5. Nội dung hai câu thơ là: khi về làm quan triều đình, có nhiều kẻ "lơ láo", có chức quyền nhưng không có đức thì người tài sẽ không có chỗ đứng.

6. Nhân vật Từ Hải là một người có ý lớn, ngang thẳng, là một đấng anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, có tài năng, nhân cách cao quý.

25 tháng 2 2022

Tham khảo:

Nguyễn Trãi được xếp vào 1 trong 14 vị anh hùng dân tộc, đồng thời là 1 trong 3 tác giả của Việt Nam được tổ chức UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới cùng với Nguyễn Du và Hồ Chí Minh . Ông là bậc khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, là nhà quân sự, chính trị lỗi lạc và kiệt xuất, có nhiều công lao to lớn khi tham gia tích cực vào khởi nghĩa Lam Sơn, giúp Lê Lợi chiến thắng giặc Minh xâm lược. Trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Trãi có nhiều công tích vẻ vang thế nhưng rốt cuộc cuối đời lại vướng vào nỗi oan mưu phản giết vua, phải chịu chết trong oan ức. Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Trãi có khá nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó Bình ngô đại cáo nổi danh là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nước ta, được xem áng thiên cổ hùng văn, là mẫu mực của thể loại cáo trong văn học trung đại, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, chính trị, ngoại giao, giá trị tư tưởng của người viết và cả giá trị văn học cho đến ngày hôm nay.

Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó dời đến Định Khê, Thường Tín, Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình danh giá, cả họ nội và ngoại đều có truyền thống yêu nước và truyền thống văn học, cha là Nguyễn Ứng Long (sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh), đã từng đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới thời nhà Trần, mẹ là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Thuở nhỏ Nguyễn Trãi phải gánh chịu nhiều mất mát, năm 5 tuổi thì mẹ mất, năm 10 tuổi thì ông ngoại qua đời. Đến năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ, tuy nhiên, năm 1407 nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải về Trung Quốc, còn Nguyễn Trãi bị giam lỏng tại thành Đông Quan trong khoảng 10 năm trời. Sau đó, ông trốn thoát và tìm đến gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành quân sư cho Lê Lợi, đóng góp nhiều công lao to lớn giúp nghĩa quân chiến thắng giặc Minh và lập ra nhà Hậu Lê. Cuối năm 1427 đâu năm 1428 Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo chiếu cáo thiên hạ thắng lợi của nghĩa quân, cũng như mở ra kỷ nguyên mới độc lập của dân tộc. Tuy nhiên nhà Hậu Lê thành lập không bao lâu thì gặp phải cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, nội bộ đất nước xảy ra mâu thuẫn, chia bè kéo phái, dẫn đến việc nhiều bậc công thần trong đó có Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm trời. Khiến ông bất đắc chí và năm 1439 xin về ở ẩn ở Côn Sơn, nhưng ngay sau đó năm 1440 lại được vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước. Trong lúc Nguyễn Trãi đang hăng hái hết lòng kiến thiết, canh tân đất nước thì năm 1442 thảm án Lệ chi viên ập xuống, dẫn đến kết cục vô cùng bi đát - Nguyễn Trãi phải chịu tội tru di tam tộc.

Về sự nghiệp thơ văn, Nguyễn Trãi vừa là nhà văn chính luận kiệt xuất cũng vừa là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, đây là hai mảng sáng tác lớn nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trãi. Ông để lại một số lượng lớn tác phẩm trong nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào nó cũng đạt đến trình độ xuất sắc. Trong lĩnh vực lịch sử có Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục ghi lại kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; trong lĩnh vực chính trị quân sự có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo; trong lĩnh vực địa lý ông để lại cuốn Dư địa chí - được đánh giá là cuốn sách địa lý cổ nhất Việt Nam. Ở thể loại văn học, các sáng tác bằng chữ Hán có cuốn Ức Trai thi tập, sáng tác bằng chữ Nôm có tập Quốc âm thi tập - cuốn sách viết bằng tiếng Việt đầu tiên còn lại cho đến ngày hôm nay. Từ số lượng tác phẩm lớn, đa dạng và phong phú trong nhiều lĩnh vực có thể thấy rằng Nguyễn Trãi là một người vô cùng tài giỏi và có vốn hiểu biết rộng lớn, xứng danh là bậc đại thi hào của dân tộc Việt Nam ta.

Với tư cách là một nhà văn chính luận kiệt xuất, ông cũng để lại một số lượng tác phẩm khá lớn, ngoài Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo đã kể trên, người ta còn sưu tập được khoảng 28 tác phẩm thuộc các thể loại chiếu, biểu, ... dưới triều Lê. Nội dung tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, đặc sắc nghệ thuật nằm ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, sử dụng các bút pháp linh hoạt tùy theo mục đích, yêu cầu, đối tượng. Thêm nữa, tất cả các tác phẩm văn chính luận của Nguyễn Trãi đều được đánh giá là áng văn chính luận mẫu mực.

Với tư cách là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, các tác phẩm hiện còn gồm hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập như đã kể trên, nội dung bao hàm chủ yếu là ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế. Tư cách người anh hùng vĩ đại hiện lên thông qua: Lý tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân; ý chí chống ngoại xâm và cường quyền bạo lực; các phẩm chất tốt đẹp tượng trưng cho người quân tử hướng đến mục đích giúp nước giúp dân bao gồm dáng đứng ngay thẳng cứng cỏi của cây trúc, vẻ thanh tao trong trắng của cây mai, và sức sống khỏe khoắn của cây tùng. Trong tư cách là một con người trần thế, ông hiện lên với những đặc điểm của một con người đời thường giản dị, ông đau đớn trước nghịch cảnh éo le của xã hội cũ, trước thói đời bạc bẽo, nham hiểm, ông cũng có những tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, đất nước con người và cuộc sống, đồng thời thể hiện cả những tình nghĩa giữa cha con, vua tôi, bạn bè rất sâu nặng.

Tổng kết lại Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV là một hiện tượng văn học kết tinh của truyền thống văn học Lý - Trần và cũng mở ra một giai đoạn phát triển mới cho văn học trung đại. Văn chương của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo, có đóng góp lớn trên cả hai bình diện là thể loại và ngôn ngữ.

Về Bình Ngô đại cáo, tác phẩm ra đời vào thời điểm cuối năm 1427, đầu năm 1428 sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt được 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan đã phải xin giảng hòa và rút quân về nước. Trước thắng lợi vang dội của nghĩa quân, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để chiếu cáo với thiên hạ rằng chúng ta đã giành lại độc lập dân tộc, tuyên ngôn độc lập, mở ra một trang mới cho lịch sử nước nhà. Bản cáo được ban bố vào đầu năm 1428. Về ý nghĩa nhan đề, sở dĩ gọi là "Bình Ngô đại cáo", bởi vua Minh vốn là người nước Ngô, mà trong chế độ quân chủ chuyên chế, vua tức là đại diện cho một đất nước, đại diện cho cả một dân tộc và chế độ của nước đó. Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô", tức là bình định quân Minh xâm lược, dẹp yên giặc dữ. Theo một cách lý giải khác nữa thì trong thời kỳ tam quốc phân tranh Ngụy-Thục-Ngô, thì Ngô là nước đã cai trị nước ta bằng những biện pháp vô cùng hung bạo và tàn nhẫn, khiến nhân dân đói khổ lầm than, vậy nên giặc Ngô còn là tên gọi chung để chỉ thứ giặc đến từ phương Bắc với các đặc điểm chung là tàn ác và vô nhân đạo. Hai chữ "đại cáo" tức là bản cáo lớn, thể hiện tầm quan trọng của sự kiện cần tuyên bố, cũng như khẳng định tư tưởng lớn của dân tộc, đóng vai trò là xương sống: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo" vốn xuyên suốt trong tác phẩm. Bên cạnh đó được biết "đại cáo" là một trong những thể loại văn bản pháp luật chính thức của nhà Minh, Nguyễn Trãi viết theo thể này, mục đích là khẳng định tính chất pháp lý của việc cần tuyên bố, không chỉ là hướng tới nhân dân Đại Việt mà còn có ý nghĩa chính trị hướng tới nhà Minh. Là một biện pháp thông minh, khẳng định sự ngang hàng về tầm vóc lịch sử, chính trị, sự tách biệt về lãnh thổ, văn hóa, nhà Minh có thể dùng "đại cáo" chiếu cáo thiên hạ, thì Đại Việt ta cũng có thể dùng nó để ban bố, tuyên ngôn về chủ quyền dân tộc một cách dõng dạc, chuyên chính có giá trị tương đương với "đại cáo" của nhà Minh. Về thể loại "cáo", đây là một thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng, để trình bày một chủ trương một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Được phân ra làm 2 loại phổ biến, thứ nhất là loại văn cáo thường ngày, thứ hai là "đại cáo" mang tính chất quốc gia, có ý nghĩa trọng đại. Về đặc trưng, cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần, nhưng chủ yếu là văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối dài ngắn không gò bó, mỗi cặp 2 vế đối nhau. Đây là thể văn hùng biện nên lời lẽ phải đanh thép, lý luận phải sắc bén, kết cấu bố cục phải chặt chẽ mạch lạc.

Về bố cục, Bình Ngô đại cáo cũng tuân thủ theo bố cục của các văn bản chính luận khác. Đoạn 1 là nêu luận đề chính nghĩa, đoạn 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đoạn 4 là phần tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

Ở đoạn đầu tiên Nguyễn Trãi đi vào nêu ra luận đề chính nghĩa với hai cơ sở lớn, một là tư tưởng nhân nghĩa "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", lấy nhân dân làm gốc, thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân, một lòng vì nhân dân. Hai là khẳng định chủ quyền của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: Văn hiến, ranh giới lãnh thổ, lịch sử đấu tranh, triều đại trị vì và phong tục tập quán. Sử dụng các dẫn chứng, lý lẽ vô cùng thuyết phục và xác đáng làm tăng độ tin cậy cũng như sự vững chãi, tính chính nghĩa của luận đề.

"Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi"

Ở đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi đi vào phân tích thực tiễn, tố cáo âm mưu tội ác của giặc Minh. Thứ nhất chúng lấy danh nghĩa phù Trần diệt Hồ để dẫn quân vào xâm lược nước ta.

"Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh"

Thứ hai Nguyễn Trãi nêu ra những tội ác của giặc Minh gây ra cho dân tộc ta bao gồm tàn sát giết hại đồng bào một cách dã man, ra sức bóc lột thuế khóa, đàn áp vắt kiệt sức lao động, đẩy nhân dân ta vào chỗ nguy hiểm, dùng mọi thủ đoạn vơ vét tài nguyên sản vật, phá hoại tài nguyên cây cỏ, phá hoại cả nền nông nghiệp của nhân dân ta.

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những nổi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi"

Mà tổng kết lại cho tội ác của giặc Nguyễn Trãi đã dùng hai câu "Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi", để diễn tả sự vô cùng, vô tận, sự bẩn thỉu, nhơ nhuốc của tội ác mà giặc Minh đã gây ra cho dân tộc Đại Việt.

Sang đoạn thứ 3, đầu tiên là đi vào tái hiện lại tài năng nhân phẩm và ý chí của chủ soái Lê Lợi.

"Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh"

Tiếp đến là kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua nhiều giai đoạn, từ lúc khởi nghĩa còn non trẻ, nhiều khó khăn, thiếu thốn cả người tài giỏi, lẫn nhu yếu phẩm, lương thực vũ khí.

"Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

...

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội."

Cho đến khi nghĩa quân khắc phục được khó khăn, tìm ra giải pháp, mở ra một con đường sáng cho cuộc khởi nghĩa nhờ ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của quân dân, tướng sĩ một lòng.

"Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

...

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công"

Cuối cùng là trận phản công trước sự ngoan cố, âm mưu tiếp viện của nhà Minh, quyết định chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn, khiến Vương Thông phải xin hàng, tháo chạy về nước:

"Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

...

Chẳng những mưu kế kì diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay"

Đến phần thứ tư là phần tuyên bố thắng lợi, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ "Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới". Sau cùng là rút ra bài học lịch sử cho dân tộc dựa trên tư tưởng mệnh trời, quy luật của tạo hóa trong ngũ hành, bát quái, Kinh dịch:

"Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

...

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay."

Về mặt nghệ thuật, bài cáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương nghệ thuật. Yếu tố chính luận thể hiện ở kết cấu chặt chẽ của tác phẩm, đi từ luận đề chính nghĩa, rồi soi chân lý vào thực tiễn, vạch trần tội ác của kẻ thù, phân biệt rõ phải trái đúng sai, để làm nổi bật lên tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, rồi cuối cùng đưa ra lời kết luận, tuyên bố sự chiến thắng vẻ vang, hào hùng. Thứ hai nữa là lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn. Bên cạnh yếu tố chính luận, thì chất văn chương nghệ thuật cũng được tác giả thể hiện nhuần nhuyễn trong tác phẩm, với lời văn rất giàu cảm xúc, xen lẫn giữa những đoạn thuật lại một cách khách quan, là những đoạn bộc lộ cảm xúc trực tiếp của tác giả (sự tức giận, phẫn nộ, oán hận trước tội ác của giặc Minh, sự tự hào, niềm vui trước chiến thắng của quân ta, cùng thái độ mỉa mai khinh nhờn trước thất bại của kẻ thù). Tiếp theo nữa là câu văn rất giàu hình tượng nghệ thuật sinh động tạo ra sức mạnh gợi cảm, gợi tả lớn (Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi), đồng thời tác giả cũng vận dụng cả sự hiểu biết của mình về các điển tích điển cố, lịch sử để làm cho bài cáo thêm linh hoạt, hấp dẫn và trang trọng.

Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm chính luận kiệt xuất, mang trong mình giá trị nội dung sâu sắc, giá trị lịch sử, chính trị, văn học lâu bền, có ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Tác phẩm xứng đáng được người đời xưng tụng là áng thiên cổ hùng văn, là áng văn chính luận mẫu mực bậc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam, khẳng định tài năng cũng như tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc của tác gia Nguyễn Trãi.

25 tháng 2 2022

Tham khảo

 

Nguyễn Trãi được xếp vào 1 trong 14 vị anh hùng dân tộc, đồng thời là 1 trong 3 tác giả của Việt Nam được tổ chức UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới cùng với Nguyễn Du và Hồ Chí Minh . Ông là bậc khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, là nhà quân sự, chính trị lỗi lạc và kiệt xuất, có nhiều công lao to lớn khi tham gia tích cực vào khởi nghĩa Lam Sơn, giúp Lê Lợi chiến thắng giặc Minh xâm lược. Trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Trãi có nhiều công tích vẻ vang thế nhưng rốt cuộc cuối đời lại vướng vào nỗi oan mưu phản giết vua, phải chịu chết trong oan ức. Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Trãi có khá nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó Bình ngô đại cáo nổi danh là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nước ta, được xem áng thiên cổ hùng văn, là mẫu mực của thể loại cáo trong văn học trung đại, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, chính trị, ngoại giao, giá trị tư tưởng của người viết và cả giá trị văn học cho đến ngày hôm nay.

 

Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó dời đến Định Khê, Thường Tín, Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình danh giá, cả họ nội và ngoại đều có truyền thống yêu nước và truyền thống văn học, cha là Nguyễn Ứng Long (sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh), đã từng đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới thời nhà Trần, mẹ là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Thuở nhỏ Nguyễn Trãi phải gánh chịu nhiều mất mát, năm 5 tuổi thì mẹ mất, năm 10 tuổi thì ông ngoại qua đời. Đến năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ, tuy nhiên, năm 1407 nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải về Trung Quốc, còn Nguyễn Trãi bị giam lỏng tại thành Đông Quan trong khoảng 10 năm trời. Sau đó, ông trốn thoát và tìm đến gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành quân sư cho Lê Lợi, đóng góp nhiều công lao to lớn giúp nghĩa quân chiến thắng giặc Minh và lập ra nhà Hậu Lê. Cuối năm 1427 đâu năm 1428 Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo chiếu cáo thiên hạ thắng lợi của nghĩa quân, cũng như mở ra kỷ nguyên mới độc lập của dân tộc. Tuy nhiên nhà Hậu Lê thành lập không bao lâu thì gặp phải cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, nội bộ đất nước xảy ra mâu thuẫn, chia bè kéo phái, dẫn đến việc nhiều bậc công thần trong đó có Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm trời. Khiến ông bất đắc chí và năm 1439 xin về ở ẩn ở Côn Sơn, nhưng ngay sau đó năm 1440 lại được vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước. Trong lúc Nguyễn Trãi đang hăng hái hết lòng kiến thiết, canh tân đất nước thì năm 1442 thảm án Lệ chi viên ập xuống, dẫn đến kết cục vô cùng bi đát - Nguyễn Trãi phải chịu tội tru di tam tộc.

Về sự nghiệp thơ văn, Nguyễn Trãi vừa là nhà văn chính luận kiệt xuất cũng vừa là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, đây là hai mảng sáng tác lớn nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trãi. Ông để lại một số lượng lớn tác phẩm trong nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào nó cũng đạt đến trình độ xuất sắc. Trong lĩnh vực lịch sử có Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục ghi lại kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; trong lĩnh vực chính trị quân sự có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo; trong lĩnh vực địa lý ông để lại cuốn Dư địa chí - được đánh giá là cuốn sách địa lý cổ nhất Việt Nam. Ở thể loại văn học, các sáng tác bằng chữ Hán có cuốn Ức Trai thi tập, sáng tác bằng chữ Nôm có tập Quốc âm thi tập - cuốn sách viết bằng tiếng Việt đầu tiên còn lại cho đến ngày hôm nay. Từ số lượng tác phẩm lớn, đa dạng và phong phú trong nhiều lĩnh vực có thể thấy rằng Nguyễn Trãi là một người vô cùng tài giỏi và có vốn hiểu biết rộng lớn, xứng danh là bậc đại thi hào của dân tộc Việt Nam ta.

 

Với tư cách là một nhà văn chính luận kiệt xuất, ông cũng để lại một số lượng tác phẩm khá lớn, ngoài Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo đã kể trên, người ta còn sưu tập được khoảng 28 tác phẩm thuộc các thể loại chiếu, biểu, ... dưới triều Lê. Nội dung tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, đặc sắc nghệ thuật nằm ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, sử dụng các bút pháp linh hoạt tùy theo mục đích, yêu cầu, đối tượng. Thêm nữa, tất cả các tác phẩm văn chính luận của Nguyễn Trãi đều được đánh giá là áng văn chính luận mẫu mực.

Với tư cách là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, các tác phẩm hiện còn gồm hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập như đã kể trên, nội dung bao hàm chủ yếu là ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế. Tư cách người anh hùng vĩ đại hiện lên thông qua: Lý tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân; ý chí chống ngoại xâm và cường quyền bạo lực; các phẩm chất tốt đẹp tượng trưng cho người quân tử hướng đến mục đích giúp nước giúp dân bao gồm dáng đứng ngay thẳng cứng cỏi của cây trúc, vẻ thanh tao trong trắng của cây mai, và sức sống khỏe khoắn của cây tùng. Trong tư cách là một con người trần thế, ông hiện lên với những đặc điểm của một con người đời thường giản dị, ông đau đớn trước nghịch cảnh éo le của xã hội cũ, trước thói đời bạc bẽo, nham hiểm, ông cũng có những tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, đất nước con người và cuộc sống, đồng thời thể hiện cả những tình nghĩa giữa cha con, vua tôi, bạn bè rất sâu nặng.

Tổng kết lại Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV là một hiện tượng văn học kết tinh của truyền thống văn học Lý - Trần và cũng mở ra một giai đoạn phát triển mới cho văn học trung đại. Văn chương của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo, có đóng góp lớn trên cả hai bình diện là thể loại và ngôn ngữ.

Về Bình Ngô đại cáo, tác phẩm ra đời vào thời điểm cuối năm 1427, đầu năm 1428 sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt được 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan đã phải xin giảng hòa và rút quân về nước. Trước thắng lợi vang dội của nghĩa quân, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để chiếu cáo với thiên hạ rằng chúng ta đã giành lại độc lập dân tộc, tuyên ngôn độc lập, mở ra một trang mới cho lịch sử nước nhà. Bản cáo được ban bố vào đầu năm 1428. Về ý nghĩa nhan đề, sở dĩ gọi là "Bình Ngô đại cáo", bởi vua Minh vốn là người nước Ngô, mà trong chế độ quân chủ chuyên chế, vua tức là đại diện cho một đất nước, đại diện cho cả một dân tộc và chế độ của nước đó. Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô", tức là bình định quân Minh xâm lược, dẹp yên giặc dữ. Theo một cách lý giải khác nữa thì trong thời kỳ tam quốc phân tranh Ngụy-Thục-Ngô, thì Ngô là nước đã cai trị nước ta bằng những biện pháp vô cùng hung bạo và tàn nhẫn, khiến nhân dân đói khổ lầm than, vậy nên giặc Ngô còn là tên gọi chung để chỉ thứ giặc đến từ phương Bắc với các đặc điểm chung là tàn ác và vô nhân đạo. Hai chữ "đại cáo" tức là bản cáo lớn, thể hiện tầm quan trọng của sự kiện cần tuyên bố, cũng như khẳng định tư tưởng lớn của dân tộc, đóng vai trò là xương sống: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo" vốn xuyên suốt trong tác phẩm. Bên cạnh đó được biết "đại cáo" là một trong những thể loại văn bản pháp luật chính thức của nhà Minh, Nguyễn Trãi viết theo thể này, mục đích là khẳng định tính chất pháp lý của việc cần tuyên bố, không chỉ là hướng tới nhân dân Đại Việt mà còn có ý nghĩa chính trị hướng tới nhà Minh. Là một biện pháp thông minh, khẳng định sự ngang hàng về tầm vóc lịch sử, chính trị, sự tách biệt về lãnh thổ, văn hóa, nhà Minh có thể dùng "đại cáo" chiếu cáo thiên hạ, thì Đại Việt ta cũng có thể dùng nó để ban bố, tuyên ngôn về chủ quyền dân tộc một cách dõng dạc, chuyên chính có giá trị tương đương với "đại cáo" của nhà Minh. Về thể loại "cáo", đây là một thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng, để trình bày một chủ trương một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Được phân ra làm 2 loại phổ biến, thứ nhất là loại văn cáo thường ngày, thứ hai là "đại cáo" mang tính chất quốc gia, có ý nghĩa trọng đại. Về đặc trưng, cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần, nhưng chủ yếu là văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối dài ngắn không gò bó, mỗi cặp 2 vế đối nhau. Đây là thể văn hùng biện nên lời lẽ phải đanh thép, lý luận phải sắc bén, kết cấu bố cục phải chặt chẽ mạch lạc.

 

Về bố cục, Bình Ngô đại cáo cũng tuân thủ theo bố cục của các văn bản chính luận khác. Đoạn 1 là nêu luận đề chính nghĩa, đoạn 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đoạn 4 là phần tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

Ở đoạn đầu tiên Nguyễn Trãi đi vào nêu ra luận đề chính nghĩa với hai cơ sở lớn, một là tư tưởng nhân nghĩa "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", lấy nhân dân làm gốc, thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân, một lòng vì nhân dân. Hai là khẳng định chủ quyền của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: Văn hiến, ranh giới lãnh thổ, lịch sử đấu tranh, triều đại trị vì và phong tục tập quán. Sử dụng các dẫn chứng, lý lẽ vô cùng thuyết phục và xác đáng làm tăng độ tin cậy cũng như sự vững chãi, tính chính nghĩa của luận đề.

"Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi"

Ở đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi đi vào phân tích thực tiễn, tố cáo âm mưu tội ác của giặc Minh. Thứ nhất chúng lấy danh nghĩa phù Trần diệt Hồ để dẫn quân vào xâm lược nước ta.

"Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh"

Thứ hai Nguyễn Trãi nêu ra những tội ác của giặc Minh gây ra cho dân tộc ta bao gồm tàn sát giết hại đồng bào một cách dã man, ra sức bóc lột thuế khóa, đàn áp vắt kiệt sức lao động, đẩy nhân dân ta vào chỗ nguy hiểm, dùng mọi thủ đoạn vơ vét tài nguyên sản vật, phá hoại tài nguyên cây cỏ, phá hoại cả nền nông nghiệp của nhân dân ta.

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những nổi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi"

Mà tổng kết lại cho tội ác của giặc Nguyễn Trãi đã dùng hai câu "Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi", để diễn tả sự vô cùng, vô tận, sự bẩn thỉu, nhơ nhuốc của tội ác mà giặc Minh đã gây ra cho dân tộc Đại Việt.

Sang đoạn thứ 3, đầu tiên là đi vào tái hiện lại tài năng nhân phẩm và ý chí của chủ soái Lê Lợi.

"Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh"

Tiếp đến là kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua nhiều giai đoạn, từ lúc khởi nghĩa còn non trẻ, nhiều khó khăn, thiếu thốn cả người tài giỏi, lẫn nhu yếu phẩm, lương thực vũ khí.

"Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

...

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội."

Cho đến khi nghĩa quân khắc phục được khó khăn, tìm ra giải pháp, mở ra một con đường sáng cho cuộc khởi nghĩa nhờ ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của quân dân, tướng sĩ một lòng.

"Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

...

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công"

Cuối cùng là trận phản công trước sự ngoan cố, âm mưu tiếp viện của nhà Minh, quyết định chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn, khiến Vương Thông phải xin hàng, tháo chạy về nước:

"Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

...

Chẳng những mưu kế kì diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay"

Đến phần thứ tư là phần tuyên bố thắng lợi, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ "Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới". Sau cùng là rút ra bài học lịch sử cho dân tộc dựa trên tư tưởng mệnh trời, quy luật của tạo hóa trong ngũ hành, bát quái, Kinh dịch:

 

"Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

...

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay."

Về mặt nghệ thuật, bài cáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương nghệ thuật. Yếu tố chính luận thể hiện ở kết cấu chặt chẽ của tác phẩm, đi từ luận đề chính nghĩa, rồi soi chân lý vào thực tiễn, vạch trần tội ác của kẻ thù, phân biệt rõ phải trái đúng sai, để làm nổi bật lên tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, rồi cuối cùng đưa ra lời kết luận, tuyên bố sự chiến thắng vẻ vang, hào hùng. Thứ hai nữa là lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn. Bên cạnh yếu tố chính luận, thì chất văn chương nghệ thuật cũng được tác giả thể hiện nhuần nhuyễn trong tác phẩm, với lời văn rất giàu cảm xúc, xen lẫn giữa những đoạn thuật lại một cách khách quan, là những đoạn bộc lộ cảm xúc trực tiếp của tác giả (sự tức giận, phẫn nộ, oán hận trước tội ác của giặc Minh, sự tự hào, niềm vui trước chiến thắng của quân ta, cùng thái độ mỉa mai khinh nhờn trước thất bại của kẻ thù). Tiếp theo nữa là câu văn rất giàu hình tượng nghệ thuật sinh động tạo ra sức mạnh gợi cảm, gợi tả lớn (Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi), đồng thời tác giả cũng vận dụng cả sự hiểu biết của mình về các điển tích điển cố, lịch sử để làm cho bài cáo thêm linh hoạt, hấp dẫn và trang trọng.

Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm chính luận kiệt xuất, mang trong mình giá trị nội dung sâu sắc, giá trị lịch sử, chính trị, văn học lâu bền, có ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Tác phẩm xứng đáng được người đời xưng tụng là áng thiên cổ hùng văn, là áng văn chính luận mẫu mực bậc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam, khẳng định tài năng cũng như tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc của tác gia Nguyễn Trãi.

Thuyết minh về Nguyễn Trãi và Bình Ngô Đại Cáo mẫu 2

Để lại cho đời một kho tàng văn học Việt Nam, những tác phẩm quý giá, đặc sắc cho nghệ thuật văn chương, khi nhắc đến Đại Cáo Bình Ngô, người đời lại nhớ đến văn hào–bậc đại anh hùng dân tộc đó là nhà thơ lớn Nguyễn Trãi.

Ông sinh năm 1380 mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại sau dời về Nhị Khê. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long- một nho sinh nghèo, học giỏi, đổ Tiến sĩ. Mẹ là Trần Thị Thái – Con quan tư đồ. Tuổi thơ của Nguyễn Trãi có rất nhiều tai ươn và cực khổ song ông vẫn một lòng tận trung vì tổ quốc, điều đó đã trở thành truyền thống của gia đình ông: yêu nước, văn hóa và văn học, Và cũng vì lòng yêu nước ấy, khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, ông thừa lệnh Lê Lợi viết Đại Cáo Bình Ngô, từ đó ông đã gửi 1 phần lời bình của bản thân về tác phẩm ấy.

Cuối năm 1427 Nguyễn Trãi viết bài Cáo và đọc vào đầu 1428 trước toàn dân để báo với mọi người biết về sự việc chống Minh. Điều đó chứng tỏ chiến tranh đã kết thúc 20 năm đô hộ của giặc minh và kết thúc 10 năm diệt thù của quân dân ta mà Nguyễn Trãi đã đề cập đến. Hơn thế nữa, sự việc ấy đã mở ra một kỉ nguyên mới, bắt đầu một cuộc sống độc lập hòa bình của dân tộc và đất nước Đại Việt.

Khi nói đến Cáo, Cáo là một thể văn nghị luận có từ thời cổ Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dung để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn cho mọi người cùng biết, mang ý nghĩa như một sự kiện trọng đãi, có tình chất quốc gia. Chính thế, tác phẩm Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập.

Đại Cáo Bình Ngô mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập, thể hiện được luận đề của chính nghĩa là ở đây: tư tưởng nhân nghĩa theo quan niệm nho giáo, nó là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí mà “cốt ở yêu dân’’ trong câu:

"Từng nghe,
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo’’

Từ đó, ta hiểu được Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng: “lấy dân làm gốc, làm cho dân được sống yên lành hạnh phúc”. Nghệ thuật của ông đưa ra đó là biện pháp so sánh, câu văn biền ngẫu song đôi mang cốt cách của nhà chính trị tài ba.

Bài Cáo của Nguyễn Trãi đã vạch trần được tội ác của kẻ thù:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Nặng thuế khóa…
Vét sản vật, bắt chim trả…’’

Chỉ một vài tội ác như thế cũng đủ lên áng bọn giặc Minh. Ý ở đây, Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp nói lên tội ác tày trời của giặc Minh: Nghệ thuật phóng đãi, lấy cái vô hạn vô cùng của tự nhiên để nhấn mạnh cái vô hạn vô cùng của tội ác, hủy hoại cuộc sống của con người bằng cách diệt chủng.

Nếu như nói tội ác của giặc Minh là vô hạn thì nước Đại Việt ta nổi dậy có cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để chống lại quân thù. Hình ảnh Lê Lợi là một co người tuy bình thường nhưng có ý tưởng hoài bão lớn lao cùng với sự đoàn kết một long của nhân dân ta đã làm nên sự tất thắng. Qua đó, ta thấy được hình tượng ngôn từ thật màu sắc, có âm thanh, nhịp điệu mang đặc điểm của bút pháp anh hùng ca, hình tượng phong phú đa dạng, đo bằng sự kì vĩ lớn rộng của thiên nhiên cùng với động từ mạnh, chuyển dồn dập, dữ dội động từ và tính từ chỉ mức độ, khi thế chiến thắng của ta, sự thất bại của địch, câu văn dài ngắn biến hóa linh hoạt.

Kết thúc chiến tranh, mở ra một kỉ nguyên hòa bình: giọng văn thư thái, nhẹ nhàng, hả hê và sự tuyên bố nền độc lập dân tộc được thống nhất, rút ra bài học kinh nghiệm cho dân ta và bài học “dạy bảo” cho địch, sự kết hợp tinh tế giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại “trên dưới một lòng”, quyết tâm của nhân dân xây dựng nền thái bình vững chắc.

        VDO.AI

Tóm lại. Đại Cáo Bình Ngô mạng nội dụng trong quan niệm nho gia hầu như không có, đây là tư tưởng tiến bộ của chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt, ranh giới, địa phận – lãnh thổ, phong tục tập quán, có lịch sử riêng, chế độ riêng với nhân tài phong kiến, những thực tế khách quan mà Nguyễn Trãi đưa ra là chân lí không thể phủ nhận, lột tả tính chất tự nhiên, lâu đời của nước Đại Việt.

Trải qua bao cuộc đấu tranh cũng như những trang lịch sử được vạch ra, ý nghĩa nhất là cuộc khởi nghĩa Lam sơn chứng minh được sử tài ba của LÊ Lợi và văn hào Nguyễn Trãi. Ông là người có nổi oan thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, là một nhân vật lịch sử vĩ đại tiêu biểu trong quá khứ - một bậc đại anh hùng dân tộc – nhân vật toàn tài hiếm có. Từ Đại Cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi gợi tả bút pháp đặc sắc làm cho tôi cảm thấy tự hào, học hỏi được bởi lòng yêu nước, lòng đoàn kết của dân tộc ta qua bao nhiêu năm tháng kháng chiến giàn độc lập. Nếu là người Việt Nam thì thật tiếc cho những ai đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam mà không biết đến nhà chính trị tài ba Nguyễn Trãi.

25 tháng 2 2022

c6 ban tham khảo dàn ý để làm nhe:

Để nói lên số phận của người phụ nữ ở xã hội xưa được nhiều người, đặc biệt là những tác giả nhà văn nhắc đến. Những tác phẩm nổi tiếng đều nói về thân phận đau khổ và xót xa của những người phụ nữ đáng thương ấy. Một trong những tác phẩm thể hiện nổi bật nội dung này là tác phẩm Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Tác phẩm nói về một người phụ nữ bị vu oan là ngoại tình khiến nhiều tình huống trớ trêu xảy ra.

II. Thân bài: Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương

1. Phẩm chất của nhân vật Vũ Nương trong truyện:

Một người vợ rất chung thủy.Vũ Nương là một người con hiếu thảo.Cô gái đẹp người, đẹp nết.Là biểu tượng cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam.

2. Nỗi oan khuất của Vũ Nương:

Vũ Nương luôn thủy chung với chồng, chăm sóc con chu đáo.Chồng Vũ Nương chỉ vì một lời nói của con mà đã nghi oan cho Vũ Nương.Khiến Vũ Nương chịu oan và chịu nhiều đau khổ.Qua đó thể hiện định kiến của xã hội ngày xưa, những lý do lạc hậu, hủ tục mê tín của người xưa.

3. Những hình ảnh, yếu tố kì ảo trong truyện:

Chồng Vũ Nương nằm mơ rồi thả rùa.Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi.Vũ Nương hiện về khi Phan Lang lập đàn giải oan.  
24 tháng 2 2022

1. Thất ngôn tứ tuyệt

2. PTBĐ: Biểu cảm

3. Những từ chỉ màu sắc: xanh xanh, một màu

4. Hành động: Cùng trông nhưng lại cùng chẳng thấy

Tâm trạng: Sầu bi

5. Phép đối:  Cùng trông lại/Cùng chẳng thấy.

Tác dụng: Làm cho đoạn thơ thêm sắc thái biểu cảm

Cho thấy sự trông ngóng trong vô vọng của người chinh phụ.

6. Thông điệp: Trân trọng người đang trông chờ mình. (Cái này em có thể ghi khác tùy em nha!)

24 tháng 2 2022

Tham khảo: 

Người ta thường nói “Ánh nắng là nụ cười vui vẻ của các vị thần trên bầu trời, còn mưa lại chính là những giọt nước mắt của người”. Thần ban cho ta ánh sáng soi sáng vạn vật, phủ lên thế gian một màu vàng tinh tế mà mỹ lệ, là nguồn hy vọng mang trong mình sự trong sáng và thuần khiết nhất.

Nhưng người cũng ban cho ta bóng tối cận kề với người bạn ánh sáng của nó, che phủ vạn vật bằng màu đen u ám, chết chóc, che đậy đi tất cả mặt xấu xa nhất, tàn độc nhất của con người bên lớp vỏ bọc u tối đó.

Cũng giống như xã hội loài người vậy, đều có hai mặt, bóng tối và ánh sáng, một xã hội tràn ngập ánh đen bất tận, bao trùm bởi nạn tham nhũng, mê tín dị đoan, sự tắc trách của các quan lớn đó, luôn có những tia sáng của sự quả cảm, tinh thần chính nghĩa hiển hiện và chiếu rọi thế gian. Xã hội đó được Nguyễn Dữ phát nét vô cùng chân thật trong tác phẩm “Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên”.

Có câu nói thế này “Yêu quái không đáng sợ, đáng sợ là yêu quái giả dạng thần tiên”. Bối cảnh câu chuyện có lẽ không mấy xa hoa, hào nhoáng, cũng không mấy đẹp đẽ, nhưng lại thể hiện rất rõ câu nói trên. Tại một ngôi làng thuộc huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang có một ngôi đền được bảo là linh ứng lắm, chả là cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, một vị tướng giặc họ Thôi tử trận gần ngôi đền, thế là vị tướng này ban ngày làm thần ban đêm làm ma quấy nhiễu dân làng, cướp ngôi đền từ tay Thổ công, giả mạo họ tên của ngài.

Vị Thổ công ấy muốn báo lên Diêm Vương nhưng khổ nỗi những đền miếu gần đây vì tham của đút, đều bên vực cho tướng giặc họ Thôi kia, có thể nói vị tướng giặc này quá khôn ngoan, hay nói vị Thổ công này quá lương thiện chăng? Lại tiếp tục câu chuyện, sau khi bị Ngô Tử Văn – nhân vật chính – đốt mất ngôi đền thì lại đến mắng chửi dọa dẫm chàng, bị chàng phớt lờ thì báo Diêm Vương, mặc dù bản thân chẳng đúng gì cả nhưng vẫn chối cãi và đổ tội cho chàng trai Tử Văn.

Thế nhưng, công lí lúc nào cũng chiến thắng, hắn ta không những không được xây lại ngôi đền mà còn bị bỏ vào ngục Cửu U, ngôi mộ của hắn cũng bị bật tung lên. Tác giả đồng thời phê phán cái ác, cái bất lương thông qua hình ảnh tướng giặc họ Thôi kia: khi sống làm giặc ngoại xâm, cướp bóc, giết hại dân làng; khi chết lại làm yêu quấy nhiễu nhân dân, tham lam, dối trá, xảo quyệt. Cùng với đó là phê phán hiện trạng xã hội đen tối, u ám: tham nhũng, đút lót.

Một xã hội đen tối không chỉ bởi sự tác động của một hai việc làm, tham nhũng, đút lót là một mà một yếu tố quan trọng khác là sự tắc trách, xa dân của các quan lớn, quan trên mà ở câu chuyện này là hình ảnh của Diêm Vương, người phán xét công lí.

Chẳng những không hay biết gì về chuyện trên nhân gian, về sự hoàn hành của yêu quái, mà còn vội vàng kết luận, tin những lời bịa đặt hàm hồ của tướng giặc họ Thôi kia. Chuyện là sau khi vị tướng giặc họ Thôi kia thông báo việc Tử Văn đốt đền, Diêm Vương liền sai hai tên quỷ sứ lên bắt Tử Văn xuống âm ti hỏi chuyện.

Nói là hỏi chuyện nhưng trên thực tế, Tử Văn vừa xuống âm ti đã bị quy vào “Tội sâu ác nặng, không được vào hàng khoan giảm”. Đến khi được mời vào cửa điện âm phủ, Tử Văn lại bị đội thêm cái mũ “Là một kẻ hàn sĩ, dám hỗn láo”, “Mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc”. Ở nhân gian chẳng phải có câu “Trăm nghe không bằng mắt thấy” hay sao? Chẳng lẽ Diêm Vương lại không biết?

Thường nói, đền là nơi thờ cúng thần bà, ở đây là chỉ Thổ công, người người cúng bái khẩn cầu, mong được bình yên, an ổn. Mà những thứ như thần, Thổ công, Ngọc Hoàng,… chẳng qua cũng chỉ là do trí tượng tưởng của con người mà thành, họ mong muốn sẽ luôn có một vị đấng tối cao nào đó luôn cầu phúc cho họ, để họ được sống vui vẻ, tai qua nạn khỏi, tất cả đều gọi là tín ngưỡng.

Xong quá tin vào đó mà phát sinh ra cảm giác dựa dẫm, sợ hãi đối với tầng lớp linh thiên đó còn được gọi là “mê tín dị đoan”. Lại nói đến việc Ngô Tử Văn đốt đền, “Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ”, không một ai ủng hộ. Tại sao lại vậy? Qua câu chuyện, tác giả còn phê phán tệ nạn mê tín dị đoan của con người: đều sợ đốt đền là bất kính với thần linh, sợ thần trừng phạt, trong khi bị chính chủ ở đó quấy nhiễu, tàn hại.

Thế nhưng, hiện lên trên tất cả những thói hư, những điều chẳng mấy tốt đẹp đó là lòng dũng cảm, cương trực của chàng Ngô Tử Văn. Ngay từ chữ đầu tiên bắt đầu câu chuyện, tác giả đã giới thiệu về Ngô Tử Văn là một người khảng khái nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được, là một người cương trực, được nhiều người khen ngợi. Và tất nhiên, không chỉ bằng những câu nói suông đó mà đã có thể bộc lộ hết được tính cách và tâm hồn cao đẹp của Tử Văn, mà nguồn sáng đó được tác giả hé mở từng chút một trong những hành động và thái độ của chàng.

Bởi lẽ tức giận trước cảnh yêu quái tác oai tác oái, Tử Văn đã quyết định đốt đền – nơi tướng giặc họ Thôi trú ngụ. Trước khi thực hiện, chàng tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi mới châm lửa đốt đền. Không những dũng cảm có lòng trừ hại cho dân, chàng còn là người có hiểu biết và tôn kính thần linh, trời đất, biết phân biệt được cái ác và cái thiện, không tin một cách mù quán thần linh; hành động dứt khoát, tự tin cho thấy chàng tin tưởng vào việc làm của mình, việc làm chính nghĩa.

Sau khi đốt đền, Tử Văn lên cơn sốt nóng, tối đó có một vị khách tự xưng cư sĩ tới hăm dọa, chửi mắng, thế nhưng chàng vẫn ngồi ngất ngưỡng tự nhiên, phớt lờ gã cư sĩ kia. Hành động đó lại càng thêm khẳng định vào việc chàng rất tin tưởng vào bản thân của mình, thái độ điềm nhiên cứ như chàng không phải là người bị đe dọa, hoàn toàn không bị khuất phục trước thần quyền.

Sau, chàng gặp được người tự xưng là Thổ công thì vô cùng kinh ngạc, cứ ngỡ người ban nãy là Thổ công, biết được sự tình từ người mới đến, chàng hỏi: “Hắn có thật là tay hung hãn”, không có ý hỏi, nhưng lại có ý châm biếm, bởi lẽ có câu thế này “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng” không phải sao? Tử Văn lắng nghe lời dặn dò của Thổ công, đêm đến bệnh càng thêm nặng, rồi bị hai tên quỷ sứ bắt đi.

Chàng bị dẫn xuống nơi “có quỷ Dạ xoa nanh ác, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương” – âm ti – liền bị chụp rằng “Tội sâu ác nặng”, chàng vẫn không sợ hãi mà dõng dạc kêu oan. Khi được mời vào cửa điện âm phủ, bị sự bắt tội của Diêm Vương, sự vu cáo bởi hồn ma tướng giặc họ Thôi, chàng không những run sợ mà yếu thế, ngược lại còn không chịu nhún nhường, kiên quyết định tội tên tướng giặc, đưa ra bằng chứng tố cáo được Thổ công kể cho.

Hành động này của chàng lại một lần nữa cho thấy chàng luôn tin vào việc làm chính nghĩa của mình, dũng cảm và tin vào công lý. Suốt cả câu chuyện, mỗi hành động của Tử Văn đều thống nhất với tính cách mà tác giả đã phát nét cho chàng ở đầu chuyện. Qua hình ảnh chàng dũng sĩ Ngô Tử Văn, tác giả đã đề cao tính cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân, là một bài học đáng quý cho thanh thiếu niên bây giờ và cả mai sau.

Tác giả thật tài tình phác họa bức chân dung đối lập của hai nhân vật Ngô Tử Văn và tướng giặc họ Thôi về tính cách, con người và cả kết cục. Tướng giặc họ Thôi bị giam ở ngục Cửu U còn Tử Văn lại được phong cho chức phán xự ở đền Tản Viên, một chức vị xứng đáng cho chàng – phán xự – chức vị phán xét công lí. Từ đó, thể hiện niềm tin vào công lý, chính nghĩa luôn chiến thắng gian tà.

Ánh sáng và bóng tối luôn đối lập với nhau, nhìn thì có vẻ ánh sáng luôn bị bao trùm bởi bóng tối, nhưng sự thực cho thấy rằng, cho dù không gian bóng tối đó có lớn bao nhiêu đi chăng nữa nhưng chỉ cần một tia sáng, tất cả bóng tối sẽ bị tan biến, thanh trừ tất cả những thứ xấu xa, ôm trọn lấy nó là ánh sáng ấm áp và thuần khiết. Cũng như câu chuyện trên, rồi ánh sáng cũng sẽ chiến thắng bóng tối.

24 tháng 2 2022

Tham khảo

 

Nguyễn Dữ là một nho sĩ thời Lê Sơ ông nổi tiếng với tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” ngoài ra ông còn có rất nhiều tác phẩm hay tiêu biểu khác, những sáng tác của ông đã đóng góp rất nhiều cho nền văn học nước nhà.

Tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” cũng giống như bao nhiêu chuyện khác của “Truyền kỳ mạn lục” đều mang yếu tố huyền bí, hư ảo. Chính điều đó tạo ra sự hấp dẫn của chuyện và làm cho câu chuyện trở nên có tính lôgic.

Khi phân tích tác phẩm Chuyện chức phán sự đề Tản Viên người đọc thường quan tâm tới yếu tố kỳ ảo, huyền bí. Bởi câu chuyện mang nhiều yếu tố được tạo ra do trí tưởng tượng của con người là chủ yếu.

Câu chuyện xoay quanh một tên tướng giặc bị chết sau khi chết hắn biến thành con ma tác oai tác quái trong nhân gian. Sau khi đốt đền thờ hắn hiện lên và dọa dẫm Tử Văn. Rồi sau khi thần thổ công tới gặp nhân vật Tử Văn anh ta liền lăn ra ốm một thời gian sau thì chết. Sau khi chết hồn Tử Văn bị đưa tới âm phủ và tại đây hồn Tử Văn đã gặp được Diêm Vương. Sau khi chết được hai ngày thì phần xác của Tử Văn lại tự dưng sống lại nhưng do hồn anh đã bị giải xuống Diêm Vương nên anh sống mà bị mất hồn. Còn phần hồn sau khi được Diêm Vương phán xử đã được nhận chức “Phán sự đề Tản Viên”.

Chính yếu tố hoang đường, thần bí xen kẽ với những yếu tố hiện thực tạo thành chuyện vô cùng hấp dẫn người đọc, nhiều tình tiết kỳ thú, đan xen đã tạo nên cốt cách riêng của thể truyền kỳ. Cũng chính nhờ yếu tố hoang tưởng, hư cấu làm cho nhà văn có thể thoải mái phát huy tính tưởng tượng cũng như đòi hỏi sự công bằng mà trong đời sống hiện thực không làm được. Thông qua câu chuyện ta có thể thấy được thái độ quan điểm sống của nhà văn trong thời kỳ mà Nguyễn Dữ sống.

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ tập trung vào cuộc đối đầu giữa một bên là anh chàng có tên Ngô Tử Văn vốn là người vô cùng thẳng tính, bộc trực, nóng nảy nên khi thấy điều gì gian ác, là không thể chịu được. Với một bên là hồn ma của một tên tướng giặc bị bại trận và giết chết nhưng do tâm tính của hắn quá tà ác nên sau khi chết hắn hóa thành yêu tinh, yêu quái nhũng nhiễu dân lành và quấy phá Ngô Tử Văn . Thực chất đây chính là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa phe chính nghĩa và phe tà ác.

 

Thể hiện quan niệm sống, tư tưởng nhân văn của tác giả Nguyễn Dữ là người luôn hướng tới điều thiện và mong muốn cho cái thiện sẽ thắng cái ác trong xã hội hiện thực.

Trong câu chuyện nhân vật của Ngô Tử Văn vô cùng đơn độc trong cuộc chiến chống lại cái xấu cái ác nhưng anh ta không hề nao núng. Trong hoàn cảnh nào anh ta cũng thể hiện niềm tin, tính khẳng khái của mình. Ngô Tử Văn là đại diện cho những người trí thức, trung thực, khẳng khái, luôn một lòng muốn xã hội được công bằng, giải quyết những oan khuất cho con người trong giai đoạn mà ông sống.

Trong những câu văn của mình Nguyễn Dữ đã dành nhiều sự ưu ái cho nhân vật Ngô Tử Văn điều này thể hiện quan niệm sống, sự đồng tình mạnh mẽ của ông trong cuộc chiến chống lại cái xấu, cái ác. Ông tin cái thiện luôn chiến thắng cái ác, sự chiến thắng của nhân vật Ngô Tử Văn thể hiện niềm tin của tác giả Nguyễn Dữ.

Đồng thời thể hiện khát vọng giành công lý, công bằng cho nhân dân của một con người có học thức, có tấm lòng nhân hậu. Còn tên tướng giặc đại diện cho quân xâm lược, đại diện cho cái ác. Sau khi chết hắn còn tác quái nhưng vẫn bị cái tốt, bị Ngô Tử Văn tiêu diệt thể hiện chân lý không dung tha cho những kẻ bất lương, không có tính người. Đồng thời qua đây tác giả Nguyễn Dữ muốn tố cáo xã hội, kêu gọi con người đoàn kết chống lại cái xấu tạo một xã hội công bằng, chính nghĩa .

24 tháng 2 2022

1. PTBĐ: Biểu cảm

2. Tác phẩm ''Hịch tướng sĩ'' của Trần Quốc Tuấn.

3. Các từ ngữ: đau, căm tức.

4. Cho thấy sự phẫn nộ, lòng căm tức kẻ thù của tác giả.

5. NDC: Nói về nỗi uất hận chưa đánh bại được kẻ thù, lòng căm giận kẻ thù đến mức đau đớn của Hưng Đạo Vương.

6. Bài học: Lòng yêu nước sâu sắc, tinh thần dũng cảm. 

24 tháng 2 2022

dài thế ạ

24 tháng 2 2022

Bt làm câu nào thì làm câu đó cũng đc ạ.