Viết bài về Công viên tượng đài nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Thơ có yếu tố tự sự, miêu tả là thơ trong đó người viết thường kể lại sự việc và miêu tả sự vật; qua đó, thể hiện tình cảm, thái độ của mình.
Là thơ trong đó người viết thường kể lại sự việc và miêu tả sự vật; qua đó, thể hiện tình cảm, thái độ của mình.
Tham khảo ạ:
Hồi nhỏ tôi thích trái bơ tới mức cứ ăn xong một trái bơ là tôi trồng hột của nó vào trong một cái chậu nhỏ. Má tôi hỏi: "Con trồng làm gì vậy?" Tôi nói: "Trồng để mai mốt cây lớn lên con có trái ăn". Má tôi xì một tiếng.
Những hột bơ nảy mầm và xòe hai lá đầu tiên. Lá bơ non to to dài dài xanh xanh và dễ thương lắm. Tôi cứ ngồi dang đầu dưới nắng mà say sưa ngắm nghía từng chiếc lá. Màu lá đậm dần. Nó đã trở nên một chiếc lá trưởng thành và cứng cáp sẵn sàng cho những chiếc lá non khác nhú ra. Hai lá tiếp theo và tiếp theo và tiếp theo nữa… Thân cây chỉ to bằng chiếc đũa và cao dần lên cho đến một ngày…
Trưa hôm đó tôi đi học về tới trước cửa nhà tôi ngẩn ngơ nhìn một dãy chậu đất trống trơn. Những cây bơ con bị nhổ sạch hồi nào không biết. Tôi đứng dậm chân bịch bịch bịch thiếu điều muốn lủng cái nền gạch rồi òa ra khóc. Má tôi nói: "Không có ai mà trồng cây bơ ở trong chậu hết rễ nó ăn bể tường đó con!" Tôi không hiểu tại sao rễ của cây bơ lại có thể ăn bể tường. Tôi cứ đứng khóc tỉ ti hoài khiến Má tôi bực mình quát lên mấy tiếng tôi sợ hãi vội vàng nín bặt.
Khi có chồng rồi tôi vẫn chứng nào tật đó ăn trái bơ xong là trồng cái hột xuống đất (chứ không phải trong chậu). Hột bơ vẫn nảy mầm vẫn vươn lên hai lá non xanh mướt. Nhưng sau đó chồng tôi nhổ phéng những cây bơ con càu nhàu miếng đất chút xíu mà trồng cây bơ làm gì. Tôi thật sự không hiểu. Tại sao mọi người không biết rằng tôi rất muốn trồng một cây bơ trong sân? Tại sao mọi người không biết tôi rất muốn ve vuốt từng trái bơ chín thơm mọc lủng lẳng trên cành?
Mấy mươi năm sau – ngày hôm nay – tôi mới hiểu. Cây bơ nó bự như một cây me già. Cành lá của nó xòe ra um tùm còn hơn cành lá của một cây xoài cội nữa. Tôi ngẩn ngơ nhìn những trái bơ chín treo lủng lẳng trong tấm hình (mà tôi mới nhận được). Trái bơ của tôi đây. Ly sinh tố bơ của tôi đây.
Và tôi mỉm cười một mình tưởng tượng đến một ngày nào đó của tháng 5 của tháng 6 của mùa hè tôi ngồi trong một góc của quán vắng vừa nhâm nhi ly sinh tố bơ vừa nhìn ngắm những chiếc lá vàng xào xạc trong làn gió mơn man…
Hồi nhỏ tôi thích trái bơ tới mức cứ ăn xong một trái bơ là tôi trồng hột của nó vào trong một cái chậu nhỏ. Má tôi hỏi: "Con trồng làm gì vậy?" Tôi nói: "Trồng để mai mốt cây lớn lên con có trái ăn". Má tôi xì một tiếng.
Những hột bơ nảy mầm và xòe hai lá đầu tiên. Lá bơ non to to dài dài xanh xanh và dễ thương lắm. Tôi cứ ngồi dang đầu dưới nắng mà say sưa ngắm nghía từng chiếc lá. Màu lá đậm dần. Nó đã trở nên một chiếc lá trưởng thành và cứng cáp sẵn sàng cho những chiếc lá non khác nhú ra. Hai lá tiếp theo và tiếp theo và tiếp theo nữa… Thân cây chỉ to bằng chiếc đũa và cao dần lên cho đến một ngày…
Trưa hôm đó tôi đi học về tới trước cửa nhà tôi ngẩn ngơ nhìn một dãy chậu đất trống trơn. Những cây bơ con bị nhổ sạch hồi nào không biết. Tôi đứng dậm chân bịch bịch bịch thiếu điều muốn lủng cái nền gạch rồi òa ra khóc. Má tôi nói: "Không có ai mà trồng cây bơ ở trong chậu hết rễ nó ăn bể tường đó con!" Tôi không hiểu tại sao rễ của cây bơ lại có thể ăn bể tường. Tôi cứ đứng khóc tỉ ti hoài khiến Má tôi bực mình quát lên mấy tiếng tôi sợ hãi vội vàng nín bặt.
Khi có chồng rồi tôi vẫn chứng nào tật đó ăn trái bơ xong là trồng cái hột xuống đất (chứ không phải trong chậu). Hột bơ vẫn nảy mầm vẫn vươn lên hai lá non xanh mướt. Nhưng sau đó chồng tôi nhổ phéng những cây bơ con càu nhàu miếng đất chút xíu mà trồng cây bơ làm gì. Tôi thật sự không hiểu. Tại sao mọi người không biết rằng tôi rất muốn trồng một cây bơ trong sân? Tại sao mọi người không biết tôi rất muốn ve vuốt từng trái bơ chín thơm mọc lủng lẳng trên cành?
Mấy mươi năm sau – ngày hôm nay – tôi mới hiểu. Cây bơ nó bự như một cây me già. Cành lá của nó xòe ra um tùm còn hơn cành lá của một cây xoài cội nữa. Tôi ngẩn ngơ nhìn những trái bơ chín treo lủng lẳng trong tấm hình (mà tôi mới nhận được). Trái bơ của tôi đây. Ly sinh tố bơ của tôi đây.
Và tôi mỉm cười một mình tưởng tượng đến một ngày nào đó của tháng 5 của tháng 6 của mùa hè tôi ngồi trong một góc của quán vắng vừa nhâm nhi ly sinh tố bơ vừa nhìn ngắm những chiếc lá vàng xào xạc trong làn gió mơn man…
a. Nếu như bỏ cụm từ in đậm, về cấu trúc, câu không có trạng ngữ, và ý nghĩa câu cũng bị mờ khi mục đích câu chuyện đưuọc nói tới là quá khứ và từ chỉ quá khứ, xác định thời gian đã bị lược
b. Nếu viết như vậy thì không phù hợp. Vì câu ban đầu hàm nghĩa là đứng lên trả lời, câu viết lại bị phân tách và sai lệch về nghĩa khi hoạt động ở đây diễn ra theo chiều hướng nghịch: trả lời câu hỏi rồi đứng lên.
c. Không thể thay đổi cấu trúc câu được. Vì nếu thay đổi cấu trúc câu, câu sẽ mang nghĩa chưa chuẩn xác so với câu văn ban đầu. Câu biến đổi ở đây bị nghịch, phi lí trong theo logic thông thường và dễ gây hiểu lầm cho người đọc.
Nhạc Trịnh Công Sơn, đặc biệt là dòng ca khúc viết về tình yêu và thân phận, hầu như ca khúc nào cũng có những ca từ lạ lùng, khó hiểu, làm cho người nghe nhạc phải hao tốn nhiều công sức nếu muốn hiểu hết từng câu chữ. Âm nhạc của Trịnh tuy đơn giản về nhạc lý, trình diễn mộc mạc, dễ khiến người nghe đồng cảm và rung động, nhưng để hiểu thấu được lại là một hành trình dường như không có hồi kết, bởi sự đa tầng đa nghĩa của lời ca, sự lồng ghép khéo léo các triết lý thâm sâu và sự kết hợp “lạ đời” của ngôn từ đôi khi bộc phát từ tiềm thức, mà chính bản thân nhạc sĩ cũng cảm thấy khó để giải thích cho cặn kẽ. Trong một lần được hỏi về ý nghĩa ca từ trong ca khúc “Một Cõi Đi Về”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói:
“Đây là một bài hát rất lạ, thực sự không dễ hiểu vì có những câu trong bài hát bản thân tôi cũng thấy khó giải thích. Viết thì viết vậy nhưng để giải thích thật rõ ràng thật khó. Khi tôi gặp không ít người dù họ học ít nhưng họ lại thích, hỏi họ có hiểu không, họ trả lời là không hiểu nhưng cảm nhận được có một cái gì đó ở bên trong. Khi nghe, khi hát lên có một điều gì đó chạm đến trái tim mình. Tôi nghĩ trong nghệ thuật điều quan trọng nhất là làm thế nào để mở ra một con đường ngắn nhất đi từ trái tim đến trái tim của người khác mà không cần cắt nghĩa gì thêm.”
Nhiều lần khác, khi những bạn bè xung quanh hỏi về một ca từ ẩn mật nào đó trong các ca khúc, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chỉ mỉm cười không trả lời hoặc thoái thác một cách bí hiểm. Dường như để cắt nghĩa cho rõ ca từ đó, nhạc sĩ sẽ phải kể lại những câu chuyện riêng tư cá nhân mà bản thân ông muốn giữ kín cho riêng mình. Trong số này, có thể kể đến những ca khúc viết cho nàng Dao Ánh. Phải đến tận 10 năm sau ngày mất của Trịnh Công Sơn, khi 300 bức tình của ông gửi người đẹp này được công bố, công chúng yêu nhạc Trịnh mới hiểu rõ “nguồn gốc” của những ca từ bí hiểm đó.
Trong khuôn khổ bài viết này, xin phép được ghi lại một vài câu chuyện thú vị xoay quanh những ca từ “bí hiểm”
Nguyễn Đinh Chiểu, là một nhà thơ với tâm hồn yêu nước sâu sắc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông luôn tôn trọng đạo đức và đặt tình yêu cho dân, đất nước làm trung tâm. Dù viết về nhiều đề tài, nhưng những bài thơ chống giặc, tinh thần đoàn kết yêu nước vẫn là những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Bài văn về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là 1 minh chứng rõ nét cho tư tưởng yêu nước của nhà thơ, mở ra một góc nhìn mới về anh hùng trong văn học.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác theo hình thức phú luật Đường, với bố cục chia thành bốn phần theo quy định của thể văn tế. Tác phẩm này khẳng định thành công của Nguyễn Đình Chiểu trong nghệ thuật viết vận tế. Bài văn tưởng nhớ đến những chiến sĩ Cần Giuộc đã anh dũng hi sinh trong cuộc chiến chống xâm lược, đồng thời truyền đạt tinh thần chiến đấu, khuyến khích lòng yêu nước của nhân dân. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, có một tượng đài nghệ thuật vững vàng về người nông dân, tương xứng với phẩm chất nghề nghiệp của họ. Ở đây, họ là những nông dân nghĩa quân chiến đấu, cứu nước.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật hiếm có. Vẻ đẹp của tượng đài nghệ thuật này vừa hoành tráng, hùng vĩ, vừa truyền cảm, bi thương. Tác phẩm thể hiện một quan niệm mới về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, độc đáo và mới lạ so với văn học yêu nước ở các giai đoạn trước.
Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu khác biệt như thế nào so với các nhà Nho yêu nước xưa? Trong quá khứ, khi xây dựng hình tượng người anh hùng, nhiều nhà văn thường tập trung mô tả về những bậc hào kiệt, những con người kiệt xuất lãnh đạo các phong trào đấu tranh của nhân dân. Ngược lại, với Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh về người anh hùng không tìm kiếm ở những nơi xa xôi, mà lại xuất phát từ những người nông dân chân chất, tận tâm và yêu nước. Tài năng của ông là khám phá và xây dựng hình tượng người anh hùng nông dân bằng văn chương. Đây không chỉ là một cá nhân, mà là toàn bộ nhóm những người anh hùng, là những nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hình ảnh trung tâm của tác phẩm là những chiến sĩ nghĩa quân. Xuất phát từ nền nông dân nghèo, cuộc sống của họ đơn sơ, chăm chỉ làm việc nông nghiệp, chưa quen với việc cung ngựa, học văn. Họ là những người chân lấm tay bùn, thường xuyên cuộc sống trong làng. Nhưng khi đất nước, quê hương bị giặc xâm lược, những người dân chân chất ấy đã hiên ngang đứng lên, hi sinh vì lý tưởng cứu nước. Đánh giặc để bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Bát cơm manh áo là ý nghĩa lớn mà họ tôn trọng và hành động. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những dòng văn giản dị nhưng chứa đựng tinh thần yêu nước cao quý.
Cảm nhận mùi ngon của bòng bong che trắng như lốp, muốn đến thưởng thức gan; hôm nay, nhìn thấy ống khói đen sì bay lên, muốn ra đây thưởng thức ẩm thực.
Tác giả đã mô tả một cuộc chiến đấu đầy quyết tâm và sức mạnh mạnh mẽ của các chiến sĩ Cần Giuộc. Họ chỉ mặc chiếc áo vải đơn giản, trang bị vũ khí như một cây gậy vông, một chiếc dao phay hoặc một khẩu súng hỏa mai bằng rơm con cúi. Tuy nhiên, họ vẫn ghi được những chiến công xuất sắc như chém đầu quan thù và thiêu rụi nhà dạy đạo. Thật sự, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra một tượng đài nghệ thuật về những anh hùng chiến đấu không khuất phục, sẵn lòng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Chứng minh rằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật về người anh hùng nông dân.
Nhìn chiếc quạt quản gió rơi, đạp rào đi mượt mà, thấy gióng chiến trống hối kích, coi trận đánh như một sự kiện không thể đánh bại; không sợ đạn nhỏ đạn to của thằng Tây, xông cửa mạnh mẽ, liều lĩnh như không có gì.
Những đoạn văn tuyệt vời như những tia lửa bùng cháy. Không khí chiến trận hừng hực âm nhạc chiến đấu, trống hồi hộp, bước chân điên đảo, mở cửa đón những thách thức, dũng cảm nhưng không hề do dự. Các chiến sĩ xem cái chết như một bản hòa nhạc không tên xâm chiếm lãnh thổ của kẻ thù. Bằng cách diễn đạt hùng biện, tình yêu quê hương, những hành động mạnh mẽ và chín mùi... đã làm nổi bật tâm hồn chiến đấu dũng cảm không thể đo bằng của những người anh hùng Cần Giuộc. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã dành tặng những trái tim của những chiến sĩ nghĩa quân những cảm xúc tươi đẹp nhất, sự ca ngợi và sự kính trọng tự hào. Thông qua đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh lần đầu tiên của người nông dân trong thơ văn với vị thế cao quý của những anh hùng dân tộc, những người xuất thân từ tầng lớp nông dân, luôn chăm chỉ với cày cuốc, nhưng khi đối mặt với giặc xâm lược, họ đã tỏ ra anh dũng đứng lên một cách tự nguyện và nhiệt huyết nhất, hy sinh bản thân cho sự độc lập của dân tộc.
Điểm độc đáo của Nguyễn Đình Chiểu là khả năng nhìn nhận những nhân vật anh hùng ngay trong cuộc sống hàng ngày, không phải là những nhân vật xuất sắc hay tài năng, chỉ đơn giản là những người nông dân sống giản dị, làm việc chăm chỉ. Họ luôn gần gũi với chúng ta mỗi ngày. Điều này xuất phát từ góc nhìn của Nguyễn Đình Chiểu - về anh hùng nông dân, khiến người đọc nhận ra rằng anh hùng, những con người cao quý không ở xa xôi, mà luôn đồng hành bên cạnh chúng ta. Có thể nói, quan điểm tiến bộ về hình ảnh người nông dân làm cách mạng không phải ai cũng hiểu được, nhưng qua bức tranh của Nguyễn Đình Chiểu, ta thấy ông là lá cờ tiên phong về quan điểm này.
Những chiến sĩ đã sống một cách dũng cảm và chết một cách vẻ vang. Tâm hồn chiến đấu và sự hi sinh của họ như một viên ngọc lấp lánh gửi trao cho bóng trăng thanh thoát mãi mãi, sáng bừng mãi, tồn tại song hành với núi non. Bài học quan trọng nhất mà những người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về cuộc sống và cái chết. Sống một cách kiêu hãnh, chết một cách không khuất phục. Tâm hồn đó đã đặt nền móng cho kiệt tác nghệ thuật về người nông dân đánh giặc.
Sống để chống giặc, thác cũng chống giặc, linh hồn hỗ trợ mỗi cơ binh, kiếp kiếp truy cứu mối thù ấy...
Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đưa ta hòa mình vào một không gian văn chương tinh tế, nơi bức tranh về anh hùng nông dân nở rộ trong từng nét chữ. Bằng cách tận dụng bút pháp trữ tình và hiện thực, tác giả đã khéo léo tái hiện cuộc sống đầy xúc động của dân tộc, để lại dấu ấn sâu sắc về lòng yêu nước và tình anh hùng.