K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Côn Sơn suối chảy rì rầm,Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.Côn Sơn có đá rêu phơi,Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.Trong ghềnh thông mọc như nêm,Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.Trong rừng có bóng trúc râm,Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.Về đi sao chẳng sớm toan,Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?Muôn chung chín vạc làm gì,Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi.Đổng, Nguyên để...
Đọc tiếp

Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?
Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan.
Lại kia trên núi Thú San,
Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu.
Hai đàng khó sánh hiền ngu,
Đều làm cho thỏa được như ý mình.
Trăm năm trong cuộc nhân sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay.
Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.

                                          (“Bài ca Côn Sơn” – Nguyễn Trãi)

Thực hiện các yêu cầu sau:

c. Xác định hai biện pháp nghệ thuật chính được sử dụng trong văn bản?

d. Hãy phân tích tác dụng của hai biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn bản trên.

e. Chỉ ra ý nghĩa từ “nhàn” trong câu thơ: “Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’

g. Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh nhân vật “Ta”

0
9 tháng 5 2022

Chịu

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: Công danh đã được hợp (1) về nhàn, Lành dữ âu chi thế nghị khen. Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen. Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà (2) nặng vạy then. Bui (3) có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chăng (4) khuyết, nhuộm chăng đen (Thuật hứng 24, Nguyễn Trãi về tác...
Đọc tiếp

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Công danh đã được hợp (1) về nhàn,

Lành dữ âu chi thế nghị khen.

Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ ương sen.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà (2) nặng vạy then.

Bui (3) có một lòng trung lẫn hiếu,

Mài chăng (4) khuyết, nhuộm chăng đen

(Thuật hứng 24, Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2006, tr. 712)

Chú thích: (1) Hợp: đáng, nên (2) Yên hà: khói sông (3) Bui: chỉ có  (4) Chăng: chẳng

Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của bài thơ.

Câu 2. Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Câu 3. Tìm những hình ảnh thiên nhiên được miêu tả trong bài thơ.

Câu 4. Nêu tác dụng của phép đối được sử dụng trong hai câu thơ:

 

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vạy then.

 

Câu 5. Anh/ chị hiểu gì về tấm lòng của Nguyễn Trãi qua hai câu thơ cuối?

Câu 6.Thông điệp có ý nghĩa nhất đối với anh/ chị rút ra từ văn bản trên?

0
8 tháng 5 2022

refer

                                            bài làm

Mộng Liên đường chủ nhân từng ca ngợi Nguyễn Du có: “Con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. Còn Hoài Thanh thì tôn vinh: “một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn”. Nếu “Truyện Kiều” là một cung đàn bạc mệnh thì đoạn trích “Trao duyên” là một cung gió thảm mưa sầu. Tấm lòng nhân đạo đã thôi thúc Nguyễn Du đồng cảm với tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều và đặc biệt là qua tám câu cuối cùng của đoạn trích “Trao duyên” với nghệ thuật diễn tả tâm lí nhân vật.

Đoạn trích “Trao duyên” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc”, từ câu 723 đến 756 của Truyện Kiều. Gia đình gặp nạn, Kiều quyết định bán mình để cứu cha và em. Chữ “hiếu” đã tròn nhưng chữ “tình” chưa vẹn. Đêm cuối cùng trước khi phải ra đi theo Mã Giám Sinh, nàng thao thức trắng đêm về việc trả nợ tình cho Kim Trọng. Giữa lúc Kiều đang “dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn” thì Vân chợt tỉnh giấc xuân ghé đến ân cần hỏi han chị. Kiều tâm sự với em nỗi lòng mình và cậy nhờ Vân thay mình nối duyên gá nghĩa với Kim Trọng. Đoạn trích này là lời trao duyên và tâm trạng của Kiều đêm ấy. “Trao duyên” là nhan đề do người biên soạn đặt đã khái quát đầy đủ tinh thần và nội dung của trích đoạn. Xưa nay, người ta chỉ trao đồ, trao vật, trao tình chứ mấy ai trao duyên đôi lứa. “Trao duyên” là hành động trả nghĩa chàng Kim của Thúy Kiều thể hiện một nét đẹp trong đạo sống của người xưa: Tình thường gắn liền với nghĩa. Quan niệm truyền thống về tình yêu khiến Kiều không thôi day dứt muốn chu toàn phần nghĩa nặng sâu khi khối tình đã dang dở. “Truyện Kiều” nói chung và “Trao duyên” nói riêng được viết dựa trên cốt truyện của “Kim Vân Kiều truyện” – một tác phẩm văn xuôi cỡ vừa của nhà văn Trung Hoa Thanh Tâm tài nhân. Bằng thể thơ lục bát dân tộc Nguyễn Du đã ghi lại “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” làm rung động muôn triệu trái tim người Việt Nam.

Quả thật, đúng như vậy, tám câu cuối của trích đoạn “Trao duyên” đã khắc họa tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều. Tình yêu là một trong những tình cảm đẹp nhất, nhân văn nhất của con người trong đó có tình yêu đôi lứa được coi là nhụy hoa của bông hoa cuộc đời. Tám câu cuối “Trao duyên” đã cho ta thấy tình yêu sâu nặng , khắc cốt ghi tâm của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Nhưng chính tình yêu sâu nặng ấy khi đổ vỡ, chia lìa lại tạo nên nỗi đau xé lòng k thể nguôi ngoai trong trái tim Thúy Kiều. Ngoài nỗi đau tình yêu tan vỡ, nhân vật còn cảm nhận sâu sắc nỗi đau thân phận của chính mình. Tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều đã được ngòi bút miêu tả tâm lí tài tình của Nguyễn Du diễn tả thật thấm thía, xúc động. Hãy cùng tìm hiểu tám câu cuối của trích đoạn “Trao duyên” để một lần nữa sống cùng nhân vật trong cả tình yêu và nỗi đau.

Hồi tưởng lại quá khứ nhưng quá khứ một đi không trở lại, hướng đến tương lai song tương lai mịt mờ, bế tắc, Kiều quay trở lại thực tại đầy phũ phàng, nghiệt ngã thấm thía sâu sắc nỗi đau tình yêu tan vỡ trong khi tình yêu dành cho Kim Trọng vẫn còn rất sâu nặng:

“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”

Nỗi đau đọng lại trong thành ngữ “trâm gãy gương tan”. “Trâm”, “gương” thường là kỉ vật của đôi lứa trao khi đính ước, nói lời hẹn thề mà giờ đây “gãy”, “tan”. Thành ngữ quen thuộc giàu sắc thái biểu cảm đã nói lên tình cảnh đổ vỡ chia lìa không thể nào cứu vãn, chẳng thể nào xoay chuyển. Nỗi đau ấy càng xé ruột, xé gan khi đôi lứa từng có những ngày tháng “muôn vàn ái ân”, ngọt ngào say đắm.

Dư vị của tình yêu đầu đời trong sáng, ngọt ngào vẫn còn đó tương phản gay gắt với nỗi đau đổ vỡ chia lìa:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

Cách gọi “tình quân” mang theo bao yêu thương, lưu luyến chẳng nỡ xa rời. Cái lạy của Kiều với Kim Trọng khác hẳn hành động “lạy thưa” Van ở đầu đoạn trích. Nếu hành động “lạy thưa” với Thúy Vân là lạy xin, lạy nhờ một việc thiêng liêng, hệ trọng trong tâm thế của người mang ơn mắc nợ thì cái lạy dành cho Kim Trọng vừa là tạ lỗi, vừa là tạ từ trong vị thế của người mang mặc cảm có lỗi vì chưa trọn tình vẹn nghĩa. Thành ngữ “tơ duyên ngắn ngủi” ẩn chứa niềm xót xa khôn cùng. Đã có duyên gặp gỡ, đã có tình nặng sâu mà tiếc thay duyên ấy thì ngắn, tình ấy phải tan. Nỗi đau về tình yêu tan vỡ của Thúy Kiều được Nguyễn Du đồng cảm thương xót diễn tả tài tình qua những câu thơ như có “máu chảy trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên trang giấy”(Mộng Liên đường chủ nhân).

Nỗi đau về tình yêu tan vỡ chưa nguôi trái tim Kiều lại phải chịu những nhát cứa của nỗi đau thân phận:

“Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Thân phận bạc bẽo, lỡ làng của Kiều được thể hiện qua những thành ngữ hàm súc, cô đọng. “Phận bạc như vôi” hình thức cảm thán “phận sao” đầy chua chát đi cùng với thành ngữ có tính chất so sánh chứa đầy cảm giác ngán ngẩm, tự thương tự đau. Bên cạnh đó, thành ngữ “nước chảy hoa trôi” đã diễn tả thấm thía cảnh ngộ trái ngang, bi kịch của nàng Kiều. Người con gái tài sắc là thế giờ chẳng khác nào bông hoa dập dềnh trên dòng nước chỉ biết phó mặc cho “nước chảy hoa trôi”. “Lỡ làng” một tình duyên với Thúy Kiều cũng là sự lỡ dở một đời người. Dự cảm có phần oan nghiệt đó đã được chứng thực ở phần sau của Truyện Kiều”. Nào ai ngờ bông hoa phong nhụy năm xưa đã trở thành đóa hoa giữa đường tan tác.

Hai câu cuối cũng được đẩy lên đến đỉnh điểm, tình yêu tột cùng hòa trong nỗi đau tột độ:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Nhịp thơ ngắt 3/3 “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!” như tiếng nấc nghẹn ngào, như tiếng khóc đau đớn. Các thán từ “Ôi”, “Hỡi” tạo ra sắc thái thống thiết cho lời hô gọi. Kiều gọi tên Kim Trọng hai lần dồn dập, thiết tha trong sự đau đớn đến hoảng loạn. Cách gọi “Kim Lang” chứa đựng tình sâu ý nặng. Từ “thôi thôi” có gì như tuyệt vọng, bế tắc. Trong nỗi đau vỡ òa, Kiều nhận mình đã “phụ” chàng Kim. Qua chữ “phụ” Kiều bộc lộ sự sám hối, đau đớn, lời tạ tội thống thiết với người yêu. Kiều đã nhận hết tất cả phần đáng trách, phần thiệt thòi về mình bằng tấm lòng vị tha, hi sinh cao cả. Cô Kiều của Nguyễn Du đáng trân trọng là thế. Trong hoàn cảnh phải bán mình cứu cha và em vẫn tìm cách cậy nhờ Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng, vẫn thấy nợ tình, nợ nghĩa chàng Kim. Cùng với nỗi đau tình yêu và nỗi đau thân phận, vẻ đẹp nhân cách đáng trân trọng của Kiều hẳn cũng là điều khiến người đọc thương mến. Con người ấy bao giờ cũng sống cho người khác hơn là sống cho chính mình. Tuy Thúy Kiều tự nhận mình đã phụ tình chàng Kim nhưng chắc chắn cả Kim Trọng và người đọc đều thấy nàng đáng thương chứ không hề đáng trách. Kiều đã làm tròn đạo hiếu của một người con, đã vì nghĩa quên thân. Chưa một phút giây nào người con gái ấy không nghĩ tới người thân, người thương. Nỗi niềm của Thúy Kiều được Kim Trọng thấu hiểu nên mười lăm năm sau vào ngày tái ngộ Kim – Kiều chàng vẫn trân trọng khẳng định:

“Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay”

Và tỏ nguyện ước thiết tha muốn được nối lại tình cầm sắt với Thúy Kiều.

Đoạn trích “Trao duyên” đã bộc lộ tư tưởng nhân đạo của nhà nhân đạo chủ nghĩa Nguyễn Du với những dòng thơ “Mực muốn múa mà bút muốn bay, văn hay phô mà chữ hay nói”, “khiến người khóc, khiến người vui, khiến người buồn”.. Nguyễn Du đã bộc lộ sự thương cảm sâu sắc cho nỗi đau tình yêu, nỗi đau thân phận của Thúy Kiều, nhất là trong tám câu thơ cuối. Đồng thời, đại thi hào còn bày tỏ sự trân trọng ngợi ca nhân cách cao thượng, phẩm giá đẹp đẽ của Thúy Kiều. Nét mới của chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du là ở chỗ nhà thơ đã hướng trọng tâm chú ý đến con người cá nhân – một phạm trù còn khá xa lạ chưa được quan tâm đúng mức trong văn học Trung Đại. Thời kì này, tinh thần phi ngã, vô ngã đề cao cái ta trách nhiệm, bổn phận vẫn đang chiếm ưu thế. Sự thức tỉnh của con người cá nhân với niềm vui và nỗi đau, với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc trên trang thơ Nguyễn Du đã đưa chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam lên một tầm cao mới. “Truyện Kiều” nói chung và đoạn trích “Trao duyên” nói riêng xứng đáng là khúc “Nam âm tuyệt xướng”( Đào Nguyên Phổ) nhờ ngôn ngữ chọn lọc, trau chuốt và ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy. Những đoạn độc thoại nội tâm tinh tế đã hé mở chiều sâu nỗi niềm nhân vật.

“Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, Truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của ta”, đó là câu nói của Phạm Quỳnh khi nhận xét về “Truyện Kiều”, lời ấy tưởng chừng không có gì là quá. Với những giá trị về nội dung và nghệ thuật xuất sắc, thời gian đã tôn vinh tác phẩm ấy xứng danh với tên “Tập đại thành của thơ ca Tiếng Việt.” Tóm lại, tám câu thơ cuối không chỉ cho ta thấy tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều mà còn làm toát lên vẻ đẹp nhân cách của nàng, dù rơi vào đau khổ tuyệt vọng đến cùng cực nhưng nàng vẫn luôn lo nghĩ cho người khác mà quên đi nỗi đau của bản thân.

6 tháng 5 2022

Tham khảo 

Dù chỉ là một trích đoạn ngắn từ “Truyện Kiều” nhưng “Trao duyên” đã góp phần thể hiện thành công những vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều và tài năng sáng tác của thiên tài Nguyễn Du. Đoạn trích là tiếng lòng tha thiết của Kiều về hoàn cảnh bi đát của gia đình, của phận mình và của tình yêu đầu đời đẹp đẽ. Đặc biệt, khi thể hiện nỗi xót xa của nàng Kiều cho duyên phận với chàng Kim, Nguyễn Du đã gây được ấn tượng trong tám câu thơ cuối đoạn trích:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong việc cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên nói riêng hay toàn bộ đoạn trích nói chung, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả và tác phẩm.

Nguyễn Du (sinh năm 1765 – mất năm 1820) còn được người đời biết đến với tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Thể hiện sự tự hào về Nguyễn Du, độc giả từ bao đời vẫn không ngớt lời ca ngợi vì đại thi hào đã có rất nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà.

Là người con của vùng đất Hà Tĩnh – vùng đất sản sinh biết bao nhân kiệt cho đất nước, Nguyễn Du nổi danh với các tác phẩm được sáng tác ở cả chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán, ông có những tập thơ nổi tiếng như: “Thanh Hiên tiền hậu tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”. Còn về chữ Nôm, có thể kể đến một số tác phẩm như: “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh”, “Thác lời trai phường nón”…

Sở dĩ gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp sáng tác là do Nguyễn Du đã dùng vốn sống của mình để phản ánh trong tác phẩm hiện thực cuộc đời, không chỉ vậy nhà thơ còn bộc lộ tấm lòng nhân đạo rất vĩ đại của ông. Thực chất những tác phẩm chữ Hán của ông là những dòng tự sự về cuộc đời đầy sóng gió, bi kịch của chính ông: những biến động dữ dội của một thời đại lịch sử trong giai đoạn từ cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX đã khiến gia đình sống đời lưu lạc, tan tác.

Sống trong xã hội đó, Nguyễn Du được tận mắt chứng kiến những ái ố của cuộc đời thông qua hình ảnh của những thân phận nhỏ bé phải chịu cảnh chèn ép tàn nhẫn, độc ác của các thế lực đen tối trong xã hội. Một cách tổng thể, người đọc có thể cảm nhận được không chỉ ở những tác phẩm chữ Hán mà trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du đều hiển hiện rõ rệt tấm lòng chân thành của Nguyễn Du với cuộc đời.

Ông phản ánh hiện thực nhưng cốt là để bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ với những kiếp người sống trong đau khổ triền miên. Trong những phận người mà Nguyễn Du thường viết về họ, ông rất quan tâm đến những người phụ nữ sống kiếp cầm ca, phải đem tài sắc làm thú vui cho người đời. Và một thành công lớn mà Nguyễn Du đã làm được ở những sáng tác của mình mà chúng ta không thể không nhắc tới là ông đã vượt lên một cách ngoạn mục những định kiến của xã hội phong kiến để nỗ lực khẳng định giá trị cao đẹp của con người.

Là một đoạn được trích từ “Truyện Kiều”, “Trao duyên” gồm 34 câu thơ. Đây là những câu thơ nằm ở vị trí từ câu 723 đến câu 756 trong kiệt tác tác phẩm. Đoạn trích hướng người đọc đến nhân vật trung tâm là Thúy Kiều trong một hoàn cảnh rất đỗi đặc biệt: Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha sau khi gia đình bị vu oan.

Trong đêm trước ngày phải xa gia đình để theo phường buôn phấn bán hương, Kiều đã nhờ em gái của mình là Thúy Vân thay Kiều trả nghĩa cho Kim Trọng; phần còn lại của đoạn trích là những dòng viết về tâm tư nỗi niềm của Thúy Kiều khi nghĩ về cuộc đời mình và khi nhớ đến Kim Trọng.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy đây là những dòng tâm trạng đau khổ cùng cực của nàng Kiều sau khi Trao duyên

Sau khi đã nói hết nỗi lòng của mình với em gái, Kiều đã nhìn lại cuộc đời mình rồi đau đớn nhận ra sự thật phũ phàng là so với quá khứ thì hiện tại có một sự đối lập đến xót xa:

“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy trong câu thơ trên, việc Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” đã mang lại sự biểu đạt rất hiệu quả. Thông qua hình ảnh ấy, tác giả đã cho thấy sự nhận thức sâu sắc của nàng Kiều về bi kịch hiện tại. Kiều bàng hoàng chua xót khi so với thời quá khứ – những năm tháng Kiều đã thật hạnh phúc với mối tình đầu đời như hoa như mộng, bây giờ còn lại chỉ là những đau đớn tủi phận khi biết bao nhiêu hẹn ước tươi đẹp trở thành hư vô.

 

“Trâm” và “gương” vốn tượng trưng cho những hình ảnh đẹp đẽ của người con gái đến tuổi để ý đến dung nhan của bản thân khi tình yêu gõ cửa trái tim. Nhưng những gì Kiều trân trọng, nâng niu để mong đến một ngày có thể cùng Trọng mãi mãi kề bên (để có thể hiện thực hóa những gì mà nàng và người yêu đã từng thề nguyền hẹn ước từ thời khắc “Kể từ khi gặp chàng Kim” – “Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”) bỗng chốc chỉ trong phút giây, tai ương ập đến, tất cả những mong ước vỡ tan thành mây thành khói.

“Muôn vàn ái ân” không thể cân đo đong đếm ở miền ký ức thơ mộng có sự hiện diện của Thúy Kiều và Kim Trọng mà nàng nhắc đến ở câu thơ tiếp theo như càng làm tăng thêm sự đối lập so với những đau khổ mà nàng vừa nhắc đến ở câu thơ trước đó. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy nhìn vào tình cảnh của Kiều để thấy những gì mà nàng phải chịu đựng ở độ tuổi xuân sắc lẽ ra vốn vẫn còn được sống trong vòng tay yêu thương, bảo bọc của mẹ cha mới thấy thương, thấy xót hơn cho nàng.

Không chỉ bản thân Kiều mà ngay cả người đọc cũng không khỏi lo lắng, hoang mang cho những tháng ngày sắp tới mà Kiều phải vượt qua. Đối chiếu giữa thực tại và một thời đã xa, đau khổ có dâng trào thành từng dòng nước mắt thì Kiều cũng không thể làm nó trở về trạng thái bình yên xưa cũ, thế nên nàng chỉ còn có thể ngậm ngùi để tìm cách an ủi, động viên chính mình và người yêu:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

Nói ra những lời ấy, Kiều thật mong Trọng cũng chấp nhận cho duyên tình giữa chàng và Kiều chỉ là những ký ức ngắn ngủi dù tươi đẹp biết bao. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng khi cậy nhờ em “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà giúp nàng giữ duyên, Kiều cũng đã rất thành khẩn khi bảo em “ngồi lên” để mình “lạy”, giờ đây, lại thêm một lần thành khẩn, nhưng Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến một người rất quan trọng với nàng là chàng Kim. Từng lời nói, từng hành động của Kiều được thể hiện trong thơ đã giúp hiện hữu ở trang viết của Nguyễn Du hình ảnh người con gái mang nặng nghĩa tình với mối tình dang dở nhưng không có cách nào cứu vãn nó.

Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên trong hai câu thơ tiếp theo, dường như Nguyễn Du đã tạo cơ hội đã Kiều có thể trút hết nỗi lòng mà khóc nức nở cho thân phận của mình:

“Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Có lẽ từ đầu buổi “trao duyên” đến thời điểm thổn thức trong tiếng khóc nàng, Kiều đã rất cố gắng để kìm giữ hết sức có thể để bình tĩnh nói cho trọn vẹn điều nàng mong muốn. Đến khi nhận mong muốn em gái thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng có lẽ đã được chấp thuận, rồi nàng cẩn thận dặn dò Thúy Vân, Thúy Kiều mới cho phép bản thân mình có thể thương xót cho nàng một cách thành thật nhất, tự nhiên nhất.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy Kiều tự ý thức được một điều là số phận của nàng không khác gì màu vôi bạc. Trước đây, khi Kiều được sống êm đềm trong mái ấm gia đình, Kiều có thể chưa bao giờ tưởng tượng ra được viễn cảnh ê chề giống như ngày hôm nay Kiều chứng kiến. Nhưng thật lòng mà nói, chắc ngay cả tưởng tượng, Kiều cũng không hẳn tưởng ra những đau khổ phũ phàng lại ập đến cuộc đời mình nhanh vội như vậy, nhanh đến mức Kiều còn chưa kịp trải đời để có thể ứng phó.

Thế nên Kiều phải đối diện với nó trong bàng hoàng và sự hoang mang tột độ. Rồi nỗi đau cứ thế mà tăng lên thêm mãi khi Kiều còn nhận thấy một tương lai mù mịt, tăm tối không biết sẽ như thế nào. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng Kiều cảm nhận được đó là một tương lai “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tháng ngày sắp tới mờ mịt và có lẽ với Kiều, những gì còn lại sau những đau thương đầu đời có lẽ chỉ là những hình ảnh thân thương, quý giá về gia đình, người yêu mà Kiều lưu lại trong trí.

Cuối cùng, nỗi đau khổ, tuyệt vọng cứ tuôn trào mạnh mẽ thành tiếng gọi người yêu đầy tha thiết nhưng lại đau đến xé lòng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Mỗi một thanh âm về tiếng gọi người yêu mà Kiều thốt lên chắc hẳn cũng là ngần ấy lần nàng quặn thắt tâm can mà đau đớn xót xa. Những từ diễn tả sự xót xa tủi phận cứ liên tiếp xuất hiện và được xâu lại thành chuỗi: “ngắn ngủi”, “lỡ làng”, “thôi thôi”, “Kim lang”, “phận sao phận” đã tạo thành những cơn sóng của đau thương ồ ạt bủa vây lấy người con gái đáng thương mà nàng đã gắng hết sức không để cho nó quật ngã.

Thế nhưng, có lẽ sức người có hạn, gắng gượng bao nhiêu nàng cũng không thể che giấu đi những tổn thương mà nàng đang gánh chịu. Vậy nên cố gắng cuối cùng của sự gắng gượng chính là tiếng gọi Kim Trọng để rồi sau đó, nàng nhận lỗi và nói lời tạ từ với Trọng, đó cũng là lời tự trách bản thân mình trong day dứt, dằn vặt.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, người đọc cũng thấy tiếng kêu thốt lên ấy đã hòa trong tiếng nấc thể hiện Kiều thương mình nhưng nhiều hơn cả là sự xót xa dành cho chàng Kim. Trong sự tan vỡ của tình yêu của hai người, Kiều nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình và tự gán cho mình là kẻ phụ bạc. Việc Kiều lấy hết can đảm để thốt lên lời thú nhận đó đã làm hiện lên ở nàng những vẻ đẹp đáng trân trọng.

Đó là vẻ đẹp của người con gái rất đỗi cao thượng trong tình yêu, dẫu bị hoàn cảnh xô đẩy, dồn đuổi đến cùng đường để đưa ra quyết định tưởng chừng không thể đau xót hơn nữa – quyết định bán mình. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Kiều vẫn xem mình là người đáng phê phán vì đã phụ bạc một tình yêu tuy mới chớm nở nhưng đã rất đậm sâu. Đó chính là phẩm chất đáng quý nơi Kiều khiến ta mỗi lúc mỗi yêu quý nàng hơn.

Nhìn tổng thể khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Nguyễn Du đã nêu bật lên sự tha thiết, trân trọng của Thúy Kiều đối với tình yêu thông qua hành động “trao duyên”. Cũng bằng cách thể hiện đó, Nguyễn Du đã bộc lộ rõ những vẻ đẹp ở phẩm chất của người con gái đầu lòng họ Vương: vừa là một mẫu người nêu gương đạo đức khi lấy chữ hiếu làm đầu, vừa là một hình ảnh nữ nhân lý tưởng khi có ý thức và nỗ lực hết mình để thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu dành cho tình yêu đích thực của mình.

Bên cạnh những nội dung đã điểm qua ở trên, điều làm nên sự thành công trong việc chuyển tải những thông điệp mà tác giả gửi gắm còn nằm ở nghệ thuật của đoạn trích. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã vận dụng thật hiệu quả nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật ở nhân vật những phẩm chất đáng trọng. Bên cạnh đó, khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc lựa chọn hình thức độc thoại nội tâm để bộc bạch những tâm tư cùng với nỗi niềm chất chứa trong lòng của nàng Kiều.

Như vậy, với những ý nghĩa về nội dung và giá trị về nghệ thuật nói trên, đoạn trích “Trao duyên” nói chung và tám câu thơ cuối đoạn trích nói riêng đã giúp cho người đọc có thể phần nào đồng cảm và thấu hiểu cho nỗi lòng của nhân vật Thúy Kiều. Đó cũng là tình cảm dành cho những kiếp nữ nhân tài hoa nhưng bị sự cay nghiệt của số phận dồn ép đến tận cùng. Tuy nhiên, phải thừa nhận một điều rằng dù cho tình cảnh có ngang trái, éo le đến nhường nào, ở họ vẫn toát lên những vẻ đẹp đáng quý.

5 tháng 5 2022

hơi dài thông cảm

Truyện Kiều trong nền văn học trung đại cũng như trong cả nền văn học Việt Nam được xem là một kiệt tác văn học có nhiều giá trị. Làm nên giá trị của truyện không chỉ bởi nghệ thuật đặc sắc mà còn bởi nội dung có nhiều nét tiến bộ, được xem là bước đi vượt bậc gần hai trăm năm của Nguyễn Du trong giới văn nhân nho sĩ thời bấy giờ. Với nhân vật trung tâm là nàng Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn cùng với cuộc đời 15 năm sóng gió vô định của nàng, Nguyễn Du đã lột tả được những hiện thực tàn nhẫn, thối nát của xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện các giá trị nhân đạo sâu sắc khi coi trọng đề cao vẻ đẹp của con người, xót thương cho những số phận nhiều đớn đau, bất hạnh, được biết là người phụ nữ trong xã hội cũ. Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích đặc sắc của Truyện Kiều, ở 12 câu đầu tác giả đã nêu bật được vẻ đẹp sắc sảo, thông minh vốn sẵn tính trời của Thúy Kiều, cũng như cách nàng mạnh mẽ chống chọi với đợt sóng gió đầu tiên trong cuộc đời.

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Thúy Kiều quả là một nhân vật nữ có nhiều bất hạnh trong cuộc đời, những bi kịch của nàng hầu như bao gồm tất cả những nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội cũ phải gánh chịu. Từ nỗi đau thân phận bọt bèo không có tiếng nói, bị cường quyền chèn ép dẫn tới nhà tan cửa nát đến nỗi đau bán thân làm lẽ cho người, chịu cảnh chồng chung, rồi nỗi đau ly biệt với người mình yêu thương, buộc phải từ bỏ tình yêu vì chữ hiếu, cho đến cuối cùng là nỗi đau bị sỉ nhục, chà đạp ở chốn phong trần, thanh y hai lượt thanh lâu hai lần đầy tủi hổ. Kiều có một xuất phát điểm cao, con nhà giàu có, sống trong nhung lụa ngọc ngà lại có một tình yêu đẹp với Kim Trọng.

Vốn mọi sự đang diễn ra êm đềm thì bất ngờ gia biến xảy đến, cha và em của Thúy Kiều bị vu oan rồi tống giam, tất cả tài sản đều bị tịch thu. Đối diện với biến cố lớn như thế, Kiều không còn cách nào khác chỉ đành nhờ người mối mai bán mình, để kiếm tiền cứu cha và em, đồng thời bội ước với Kim Trọng. Sau khi đã giải quyết xong chuyện nhà, cha và em được cứu, Kiều mới quay lại nhìn về tình yêu dang dở của mình. Nhớ đến Kim Trọng, Kiều lại càng đau khổ và dằn vặt trong suy nghĩ vì nghĩ bản thân đã làm chuyện có lỗi với người yêu. Trong lúc ấy nàng hết lòng suy nghĩ chuyện tạ lỗi, cũng như bù đắp cho chàng Kim, để trả món nợ duyên tình gãy gánh, cuối cùng nàng mới nghĩ ra một cách là nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng, nhờ em gái giúp mình chăm sóc đỡ đần chàng Kim một đời. Tuy nhiên việc gán ghép, tình chị duyên em ấy không phải là dễ mở lời, đặc biệt khi Thúy Vân còn quá nhỏ để hiểu hết những nỗi đau khổ, dằn vặt trong lòng Kiều. Biết vậy Thúy Kiều đã gọi em gái đến và lựa lời nhờ cậy rằng:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Kiều rất khéo léo khi sử dụng hai chữ “cậy” và “chịu”, “cậy” mang nghĩa nhờ cậy, thể hiện tấm lòng tha thiết, mong đợi được giúp đỡ, gần như là khẩn khoản xin Vân nhận lời. Trong khi đó “chịu” lại ngầm thể hiện sự khó khăn của việc trao duyên cho Vân, cũng như chuyện Vân đồng ý là không dễ dàng, bộc lộ sự thấu hiểu và khó xử của Thúy Kiều khi phải mở lời cậy nhờ em gái. Tiếp đến hành động bảo em gái ngồi lên ghế sau đó cúi lạy lại cũng là một cử chỉ tinh tế, Kiều làm vậy không chỉ muốn đưa Thúy Vân vào thế không thể từ chối lời chị mà còn bày tỏ tấm lòng thành của nàng trước Thúy Vân, rằng bản thân đã nợ em gái một lần ân nghĩa mà cả đời cũng không thể trả, chỉ mong rằng sau lần vái lạy, mong Vân hãy nể tình ruột thịt mà đồng ý giúp đỡ.

Thấy những hành động trang trọng, khác thường của chị, bản thân Thúy Vân dù chưa hiểu chuyện gì thế nhưng mặc nhiên là nàng khó có thể mở lời từ chối, bởi lẽ Kiều dường như là đang ngầm cầu xin Thúy Vân giúp đỡ, lấy thân phận của người chịu ơn nói với em gái. Sau đó nữa Kiều đã thẳng thắn nói với Vân”

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Giọng điệu quyết đoán, mạnh mẽ khẳng định mối duyên với Kim Trọng đã “đứt gánh”, mong rằng từ nay Vân sẽ thay mình “chắp mối” duyên tình dang dở. Kiều cũng thấu hiểu nỗi băn khoăn và khó xử của Thúy Vân, nàng lại ôn tồn, lặng lẽ kể lại câu chuyện tình yêu tốt đẹp của mình với chàng Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”,

Câu thơ bộc lộ tình yêu sâu sắc, lời hẹn thề ước định chung thân, mối nhân duyên tốt đẹp chỉ chờ ngày đơm hoa kết trái. Thế nhưng đớn đau thay “Sự đâu sóng gió bất kỳ/Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Đứng giữa chữ hiếu và chữ tình Kiều đành chọn gia đình, chọn bội ước, từ bỏ tình yêu để cứu cha và em, dù đau xót nhưng Kiều cũng chẳng thể làm khác. Nói đến đây, phận là em, là con trong gia đình hẳn Thúy Vân lại càng thấu hiểu và thông cảm cho những nỗi khổ tâm của chị mình, có lẽ lòng nàng cũng dần xuôi theo ý định của Thúy Kiều. Nhưng Kiều không dừng lại ở đó, nàng cũng bộc lộ tấm lòng thông cảm cho Thúy Vân, khi thấy em phải thay mình lấy Kim Trọng, một người mà cô không thương, phải gắn bó cả cuộc đời mà không nắm chắc được hạnh phúc điều ấy được thể hiện trong câu nói của Thúy Kiều rằng “Ngày xuân em hãy còn dài”. Ý chỉ Thúy Vân cuộc đời tươi đẹp hãy còn đang chờ ở phía trước, dù rằng có thể khởi đầu này không phải là khởi đầu mà nàng hoàn toàn mong đợi, thế nhưng ít ra có lẽ nàng vẫn được một chút bình yên. Câu thơ cũng thể hiện nỗi chạnh lòng xót xa của Kiều khi đối diện với thực tại, khi phải trao duyên cho em gái, tuổi xuân của Vân còn dài, vậy của nàng chẳng lẽ ngắn, ấy thế nhưng cuối cùng nàng vẫn phải chịu bất hạnh, phải rời xa quê hương, chịu cảnh làm thiếp thất, nói không đau, không sầu khổ thì là nói dối. Trong nỗi đau đớn, dằn vặt ấy Kiều tiếp tục nỉ non từng lời với Thúy Vân:

“Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Câu thơ là những lời khẩn khoản, thiết tha nhất mà Kiều dành cho em gái, cũng là biện pháp hữu hiệu cuối cùng để khiến Thúy Vân mềm lòng đồng ý lấy Kim Trọng. Kiều đã khéo léo đánh vào tâm lý của em gái, khi đề cập đến tình chị em ruột thịt, mong em gái thương xót mình mệnh khổ. Không chỉ thế lời Kiều ai oán, thê lương, càng đem đến hiệu ứng dường như ấy là lần cuối cùng Kiều nhờ vả Thúy Vân. Mà chỉ khi hoàn thành chuyện này, thì lòng nàng mới thôi day dứt, mới có thể yên tâm rời đi, cho dù “thịt nát xương mòn” hay về nơi chín suối Kiều cũng chấp nhận. Chỉ mong rằng có thể trả hết nợ ân nghĩa thế gian, trước là cha mẹ, sau là người yêu mà Vân là người duy nhất Kiều có thể tin tưởng và nhờ cậy chuyện trọng đại như này. Cũng hy vọng rằng chàng Kim Trọng một khi quay lại, không tìm thấy nàng thì cũng bớt đi phần đau khổ, mà có thể bắt đầu cuộc sống mới với Thúy Vân, một đời hạnh phúc ấm êm.

Mười hai câu đầu của đoạn trích Trao duyên đã bộc lộ rõ tính cách, cũng như sự thông minh, quyết đoán, khéo léo và mạnh mẽ của Thúy Kiều trong công cuộc thuyết phục trao duyên cho em gái, trả món nợ ân tình với Kim Trọng. Đồng thời cũng bộc lộ những nỗi đau khổ, dằn vặt sâu sắc của nàng khi bên này vừa từ bỏ tình yêu, chấp nhận bán thân làm lẽ để cứu cha, thì ngay sau đó lại phải nhọc lòng suy nghĩ việc bù đắp, tạ lỗi với chàng Kim, vẻ đẹp nhân cách đáng quý, sống có tình có nghĩa trước sau của Thúy Kiều, xứng với cái danh tài sắc vẹn toàn của nàng.

5 tháng 5 2022

tham khảo

Truyện Kiều trong nền văn học trung đại cũng như trong cả nền văn học Việt Nam được xem là một kiệt tác văn học có nhiều giá trị. Làm nên giá trị của truyện không chỉ bởi nghệ thuật đặc sắc mà còn bởi nội dung có nhiều nét tiến bộ, được xem là bước đi vượt bậc gần hai trăm năm của Nguyễn Du trong giới văn nhân nho sĩ thời bấy giờ. Với nhân vật trung tâm là nàng Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn cùng với cuộc đời 15 năm sóng gió vô định của nàng, Nguyễn Du đã lột tả được những hiện thực tàn nhẫn, thối nát của xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện các giá trị nhân đạo sâu sắc khi coi trọng đề cao vẻ đẹp của con người, xót thương cho những số phận nhiều đớn đau, bất hạnh, được biết là người phụ nữ trong xã hội cũ. Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích đặc sắc của Truyện Kiều, ở 12 câu đầu tác giả đã nêu bật được vẻ đẹp sắc sảo, thông minh vốn sẵn tính trời của Thúy Kiều, cũng như cách nàng mạnh mẽ chống chọi với đợt sóng gió đầu tiên trong cuộc đời.

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Thúy Kiều quả là một nhân vật nữ có nhiều bất hạnh trong cuộc đời, những bi kịch của nàng hầu như bao gồm tất cả những nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội cũ phải gánh chịu. Từ nỗi đau thân phận bọt bèo không có tiếng nói, bị cường quyền chèn ép dẫn tới nhà tan cửa nát đến nỗi đau bán thân làm lẽ cho người, chịu cảnh chồng chung, rồi nỗi đau ly biệt với người mình yêu thương, buộc phải từ bỏ tình yêu vì chữ hiếu, cho đến cuối cùng là nỗi đau bị sỉ nhục, chà đạp ở chốn phong trần, thanh y hai lượt thanh lâu hai lần đầy tủi hổ. Kiều có một xuất phát điểm cao, con nhà giàu có, sống trong nhung lụa ngọc ngà lại có một tình yêu đẹp với Kim Trọng.

Vốn mọi sự đang diễn ra êm đềm thì bất ngờ gia biến xảy đến, cha và em của Thúy Kiều bị vu oan rồi tống giam, tất cả tài sản đều bị tịch thu. Đối diện với biến cố lớn như thế, Kiều không còn cách nào khác chỉ đành nhờ người mối mai bán mình, để kiếm tiền cứu cha và em, đồng thời bội ước với Kim Trọng. Sau khi đã giải quyết xong chuyện nhà, cha và em được cứu, Kiều mới quay lại nhìn về tình yêu dang dở của mình. Nhớ đến Kim Trọng, Kiều lại càng đau khổ và dằn vặt trong suy nghĩ vì nghĩ bản thân đã làm chuyện có lỗi với người yêu. Trong lúc ấy nàng hết lòng suy nghĩ chuyện tạ lỗi, cũng như bù đắp cho chàng Kim, để trả món nợ duyên tình gãy gánh, cuối cùng nàng mới nghĩ ra một cách là nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng, nhờ em gái giúp mình chăm sóc đỡ đần chàng Kim một đời. Tuy nhiên việc gán ghép, tình chị duyên em ấy không phải là dễ mở lời, đặc biệt khi Thúy Vân còn quá nhỏ để hiểu hết những nỗi đau khổ, dằn vặt trong lòng Kiều. Biết vậy Thúy Kiều đã gọi em gái đến và lựa lời nhờ cậy rằng:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Kiều rất khéo léo khi sử dụng hai chữ “cậy” và “chịu”, “cậy” mang nghĩa nhờ cậy, thể hiện tấm lòng tha thiết, mong đợi được giúp đỡ, gần như là khẩn khoản xin Vân nhận lời. Trong khi đó “chịu” lại ngầm thể hiện sự khó khăn của việc trao duyên cho Vân, cũng như chuyện Vân đồng ý là không dễ dàng, bộc lộ sự thấu hiểu và khó xử của Thúy Kiều khi phải mở lời cậy nhờ em gái. Tiếp đến hành động bảo em gái ngồi lên ghế sau đó cúi lạy lại cũng là một cử chỉ tinh tế, Kiều làm vậy không chỉ muốn đưa Thúy Vân vào thế không thể từ chối lời chị mà còn bày tỏ tấm lòng thành của nàng trước Thúy Vân, rằng bản thân đã nợ em gái một lần ân nghĩa mà cả đời cũng không thể trả, chỉ mong rằng sau lần vái lạy, mong Vân hãy nể tình ruột thịt mà đồng ý giúp đỡ.

Thấy những hành động trang trọng, khác thường của chị, bản thân Thúy Vân dù chưa hiểu chuyện gì thế nhưng mặc nhiên là nàng khó có thể mở lời từ chối, bởi lẽ Kiều dường như là đang ngầm cầu xin Thúy Vân giúp đỡ, lấy thân phận của người chịu ơn nói với em gái. Sau đó nữa Kiều đã thẳng thắn nói với Vân”

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Giọng điệu quyết đoán, mạnh mẽ khẳng định mối duyên với Kim Trọng đã “đứt gánh”, mong rằng từ nay Vân sẽ thay mình “chắp mối” duyên tình dang dở. Kiều cũng thấu hiểu nỗi băn khoăn và khó xử của Thúy Vân, nàng lại ôn tồn, lặng lẽ kể lại câu chuyện tình yêu tốt đẹp của mình với chàng Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”,

Câu thơ bộc lộ tình yêu sâu sắc, lời hẹn thề ước định chung thân, mối nhân duyên tốt đẹp chỉ chờ ngày đơm hoa kết trái. Thế nhưng đớn đau thay “Sự đâu sóng gió bất kỳ/Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Đứng giữa chữ hiếu và chữ tình Kiều đành chọn gia đình, chọn bội ước, từ bỏ tình yêu để cứu cha và em, dù đau xót nhưng Kiều cũng chẳng thể làm khác. Nói đến đây, phận là em, là con trong gia đình hẳn Thúy Vân lại càng thấu hiểu và thông cảm cho những nỗi khổ tâm của chị mình, có lẽ lòng nàng cũng dần xuôi theo ý định của Thúy Kiều. Nhưng Kiều không dừng lại ở đó, nàng cũng bộc lộ tấm lòng thông cảm cho Thúy Vân, khi thấy em phải thay mình lấy Kim Trọng, một người mà cô không thương, phải gắn bó cả cuộc đời mà không nắm chắc được hạnh phúc điều ấy được thể hiện trong câu nói của Thúy Kiều rằng “Ngày xuân em hãy còn dài”. Ý chỉ Thúy Vân cuộc đời tươi đẹp hãy còn đang chờ ở phía trước, dù rằng có thể khởi đầu này không phải là khởi đầu mà nàng hoàn toàn mong đợi, thế nhưng ít ra có lẽ nàng vẫn được một chút bình yên. Câu thơ cũng thể hiện nỗi chạnh lòng xót xa của Kiều khi đối diện với thực tại, khi phải trao duyên cho em gái, tuổi xuân của Vân còn dài, vậy của nàng chẳng lẽ ngắn, ấy thế nhưng cuối cùng nàng vẫn phải chịu bất hạnh, phải rời xa quê hương, chịu cảnh làm thiếp thất, nói không đau, không sầu khổ thì là nói dối. Trong nỗi đau đớn, dằn vặt ấy Kiều tiếp tục nỉ non từng lời với Thúy Vân:

“Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Câu thơ là những lời khẩn khoản, thiết tha nhất mà Kiều dành cho em gái, cũng là biện pháp hữu hiệu cuối cùng để khiến Thúy Vân mềm lòng đồng ý lấy Kim Trọng. Kiều đã khéo léo đánh vào tâm lý của em gái, khi đề cập đến tình chị em ruột thịt, mong em gái thương xót mình mệnh khổ. Không chỉ thế lời Kiều ai oán, thê lương, càng đem đến hiệu ứng dường như ấy là lần cuối cùng Kiều nhờ vả Thúy Vân. Mà chỉ khi hoàn thành chuyện này, thì lòng nàng mới thôi day dứt, mới có thể yên tâm rời đi, cho dù “thịt nát xương mòn” hay về nơi chín suối Kiều cũng chấp nhận. Chỉ mong rằng có thể trả hết nợ ân nghĩa thế gian, trước là cha mẹ, sau là người yêu mà Vân là người duy nhất Kiều có thể tin tưởng và nhờ cậy chuyện trọng đại như này. Cũng hy vọng rằng chàng Kim Trọng một khi quay lại, không tìm thấy nàng thì cũng bớt đi phần đau khổ, mà có thể bắt đầu cuộc sống mới với Thúy Vân, một đời hạnh phúc ấm êm.

Mười hai câu đầu của đoạn trích Trao duyên đã bộc lộ rõ tính cách, cũng như sự thông minh, quyết đoán, khéo léo và mạnh mẽ của Thúy Kiều trong công cuộc thuyết phục trao duyên cho em gái, trả món nợ ân tình với Kim Trọng. Đồng thời cũng bộc lộ những nỗi đau khổ, dằn vặt sâu sắc của nàng khi bên này vừa từ bỏ tình yêu, chấp nhận bán thân làm lẽ để cứu cha, thì ngay sau đó lại phải nhọc lòng suy nghĩ việc bù đắp, tạ lỗi với chàng Kim, vẻ đẹp nhân cách đáng quý, sống có tình có nghĩa trước sau của Thúy Kiều, xứng với cái danh tài sắc vẹn toàn của nàng.