K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

7 tháng 3

Đáp án là: Chuẩn bị

7 tháng 3

Đáp án đúng là:

Hồn nhiên

7 tháng 3

Olm chào em, đối với những tài khoản không phải vip của Olm thì không thể luyện lại bài tập, không thể xem hết bài giảng, đang xem sẽ bị dừng, không xem được đáp án, không nộp được bài, em nhé. Trừ khi cô giáo giao lại bài đó cho em làm lại thì được.

Để sử dụng toàn bộ học liệu của Olm thì em vui lòng kích hoạt vip olm. Quyền lợi của Olm vip là sử dụng toàn bộ học liệu của Olm từ lớp 1 đến lớp 12. Học và luyện không giới hạn bài giảng bài tập của Olm. Cùng hàng triệu đề thi thông minh, ngân hàng câu hỏi. Hỏi bài không giới hạn trên diễn đàn hỏi đáp, tương tác với giáo viên qua zalo. 

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm) Đọc văn bản sau: ÔNG TIÊN ĂN MÀY(1)       Nguyễn Ất là một người thôn nọ, không nhớ ở xóm nào, thuở nhỏ mô côi cả cha lẫn mẹ, được anh nuôi. Anh là Giáp tham lam, bủn xỉn, không yêu thương em, chị dâu cũng tàn ác hung bạo. Khi Ất lớn ra ở riêng, tài sản của cha bị anh chị chiếm hết. Ất chỉ được một mảnh ruộng cằn với gian nhà nát mà thôi....
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Đọc văn bản sau:

ÔNG TIÊN ĂN MÀY(1)

      Nguyễn Ất là một người thôn nọ, không nhớ ở xóm nào, thuở nhỏ mô côi cả cha lẫn mẹ, được anh nuôi. Anh là Giáp tham lam, bủn xỉn, không yêu thương em, chị dâu cũng tàn ác hung bạo. Khi Ất lớn ra ở riêng, tài sản của cha bị anh chị chiếm hết. Ất chỉ được một mảnh ruộng cằn với gian nhà nát mà thôi. Nghèo đói quá, Ất phải đi làm mướn, kiếm củi để sống qua ngày. Năm ngoài hai mươi tuổi, Ất nghèo không lấy nổi vợ, anh không đoái hoài đến mà em cũng chẳng muốn hỏi xin.

      Làng bên có một ông nhà giàu. Ất thường làm mướn ruộng cho nhà ấy, lâu dần thành quen. Phú ông có một khoảnh đất bỏ hoang, Ất xin đến ở, bèn gánh cả cơ nghiệp dọn đến. Từ đấy, càng xa cách Giáp, năm hết tết đến cũng chẳng hỏi han gì đến nhau.

      Ất tuy nghèo nhưng hay làm điều thiện, gặp ai bần cùng đều chia sẻ cho họ. Một hôm anh đi làm thuê, chiều tối về thấy một người nằm giữa cửa, lay thì người ấy rên không dậy được. Thắp đèn lên soi thì thấy một ông già gầy guộc, ốm yếu, mắt nhèm, mũi dãi tanh hôi dị thường, nôn mửa, phân vung vãi khắp ngoài cửa. Ất vực dậy hỏi han, ông già nói là người thôn bên, nghèo ốm phải đi ăn xin, tối đến đây mệt quá, xin nhờ một xó nằm nghỉ cho hết đêm. Ất mở cửa đỡ vào, rót nước nóng cho uống, ông già hơi tỉnh, bèn chải chăn chiếu cho nằm; thổi nấu xong gọi ông già cùng ăn. Ông già ốm yếu mà ăn thật khoẻ, ăn hết hơn một đấu gạo còn kêu đói. Ất sẻ thức ăn sang cho ông cụ. Lúc lâu sau, ông cụ mới xoa bụng nói:

      Lão no rồi. Thằng con lão hư đốn không biết hiếu thuận, nếu lão có được người con như cháu thì thật là mãn nguyện.

      Rồi ông lão nằm duỗi dài ra, ngủ thì ngáy như sấm, tỉnh thì ho hắng khạc nhổ, ầm ĩ cả đêm, song Ất không hề tỏ ra khó chịu. Sáng hôm sau, ông già trở dậy, Ất lại sửa soạn mâm bát. Ông già ngăn lại nói:

      Cháu hay làm việc thiện thì không đáng phải nghèo. Ơn một bữa cơm lão không thể không báo đáp.

      Rồi lấy chậu hứng dưới mũi, ngoảnh lại bảo Ất:

      Lấy cán muôi đập vào mũi lão đi!

      Ất không chịu, ông già nài ép, Ất đành đập mấy cái, máu chảy ra, Ất sợ quả dừng tay lại nhưng ông già bảo cứ đập tiếp. Khi máu thôi chảy thì thấy vàng ùn lên từ đáy chậu, lát sau đã đầy. Ông già quay lại bảo Ất:

      Giữ lấy chỗ vàng này có thể làm giàu được rồi đấy! Cháu hãy gắng làm điều thiện, đừng giảm sút nhé!

      Ất kinh ngạc lạy tạ, lúc ngẩng đầu lên thì cụ già đã đi rồi. Ất được vàng, nhưng giấu kín, vẫn đến ông nhà giàu vay tiền, nói là để đi buôn. Anh bỏ vàng vào đãy, mang lên kinh mua hàng đem về bán. Một năm đi ba bốn chuyến, mới dùng hết nửa số vàng mà tiền đã được hàng vạn vạn, anh bèn từ biệt ông nhà giàu về quê, chuộc lại căn nhà cũ, dần dà mua thêm ruộng, mượn người phá nhà cũ làm nhà mới, trở nên giàu có nhất làng. Sau đó Ất đến nhà người anh, nhờ anh hỏi con gái nhà thế tộc làm vợ.

      Lúc đầu Ất về quê đến chào anh chị, vợ chồng Giáp đối xử nhạt nhẽo. Lâu cũng không thèm sang thăm, bỗng nghe nói người em giàu sụ, lấy làm lạ bèn đến xem. Khi tới nơi thấy gian nhà nát trên mảnh đất xưa kia đã được xây thành căn nhà lớn, sắp sửa làm xong. Em lại còn mua mấy mẫu ruộng xấu của một nhà hàng xóm liền kề, phát quang gai góc làm vườn, thợ thuyền, đầy tớ vận chuyển gỗ đá nối nhau không dứt. Anh chị kinh ngạc quá, hỏi em nguyên do, Ất kể kĩ lại những điều đã gặp, anh chị hâm mộ mãi, hỏi kĩ tuổi tác, hình dạng ông già để còn đi tìm.

      Hơn một năm sau, người anh từ ngoài về vừa lúc có một ông già đội mũ vàng, mặc áo bào rách co ro đi qua cửa. Hai vợ chồng Giáp tranh nhau kéo vào nhà, ép ngồi ghế trên, chẳng kịp hỏi rõ ông ta từ đâu đến. Rồi mổ gà, thổi xôi, chặt cá làm gỏi, cung phụng rất hậu. Ông già khép nép không dám nhận, vợ chồng Giáp đối xử theo lễ càng cung kính, lại nói:

      - Tiên ông cứ lấy hết trong lỗ mũi ra thì cả đời đệ tử này ăn tiêu cũng không hết.

      Sáng hôm sau, ông cụ vái chào xin đi, không tặng lại gì cả. Giáp giữ lại, không cho về, lấy cái nón lớn đặt trước mặt ông cụ, cắm cái dùi to vào Ông già hoảng hốt che đỡ. Giáp nói:

      - Tiên ông không hiểu biết gì cả. Đệ tử không xin nhiều. Vàng cứ đầy này là được.

      Tức thì sai vợ giữ quật tay ông lão, còn mình ra sức gõ vào sống mũi ông vừa chọc máu đã chảy ra. Giáp mừng rỡ nói:

      - Quả như lời chú hai nói, vàng sắp thành rồi.

      Liên tiếp đánh đến nỗi mũi ông cụ vỡ ra, rụng cả răng, khiến ông cụ phải hô cứu mạng. Hàng xóm tứ bề kéo đến, không hiểu duyên cớ là gì. Hỏi thì chồng Giáp giận dữ không chịu nói, hỏi ông cụ mới biết tường tận nhưng ông cụ cũng không hiểu vì sao trước thì cung kính sau lại hung tợn như thế. Ông lão vốn là người bán tương ở thôn bên. Giáp ngày thường bủn xỉn, cả làng đều ghét nên có người chạy đi báo với con trai ông cụ. Anh con trai trước đó thấy cha mãi không về, đang lo đi tìm hỏi, nay hay tin giận lắm, tức khắc cùng người làng đưa cả ông cụ và vợ chồng Giáp lên quan. Quan cho rằng đánh tàn nhẫn một người lớn tuổi như thế thì phải đền tiền tạ tội theo luật, lại nọc vợ chồng Giáp ra đánh mấy chục hèo(2), mông nát cả thịt ra.

(Trích Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh(3), in trong Truyện truyền kì Việt Nam, Quyển hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009)

Chú thích:

(1) Ông tiên ăn mày được rút trong Lan Trì kiến văn lục - một tập truyện truyền kỳ bằng chữ Hán do Vũ Trinh biên soạn, bao gồm nhiều câu truyện ngắn, kể về các sự kiện lịch sử, các nhân vật, phong tục, và những hiện tượng kỳ lạ xảy ra trong xã hội thời đó.

(2) Hèo: cây họ cau, thường dùng làm gậy.

(3) Vũ Trinh (1759 - 1828), nhà văn nổi tiếng của Việt Nam trong thời kỳ cuối Lê đầu Nguyễn, nổi tiếng với tác phẩm Lan Trì kiến văn lục. Ông cũng sáng tác nhiều văn thơ thể hiện tư tưởng đạo Nho, đồng thời còn là một học giả tinh thông nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lý, và triết học.

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể của văn bản trên.

Câu 2. (0,5 điểm). Chỉ ra cách tác giả đã sử dụng để dẫn lời nói của nhân vật trong các câu in đậm sau:

Ông già ngăn lại nói:

- Cháu hay làm việc thiện thì không đáng phải nghèo. Ơn một bữa cơm lão không thể không báo đáp.

Câu 3 (1,0 điểm). Vì sao vợ chồng nhân vật Giáp không được ông già đội mũ vàng, mặc áo bào rách ban tặng vàng?

Câu 4 (1,0 điểm). Nêu ngắn gọn chủ đề của của văn bản.

Câu 5 (1,0 điểm). Hình ảnh hai anh em Giáp, Ất trong văn bản trên khiến em liên tưởng tới truyện cổ tích Việt Nam nào mà em đã học, đã đọc? Vì sao có sự liên tưởng đó? (Trả lời trong 3-5 câu)

0
7 tháng 3

tác giả của tác phẩm chí phèo là nhà văn Nam Cao đó




7 tháng 3

Câu 1 (2,0 điểm): Viết đoạn văn phân tích nhân vật "tôi"

Nhân vật "tôi" trong truyện ngắn Một lần và mãi mãi được khắc họa với những diễn biến tâm lý tinh tế, chân thực. Ban đầu, "tôi" là một đứa trẻ hồn nhiên, có đôi chút yếu lòng khi bị bạn bè lôi kéo, dẫn đến việc lừa bà Bảy Nhiêu bằng tờ giấy giả. Tuy nhiên, khác với Bá, "tôi" mang trong mình sự do dự, áy náy khi phạm sai lầm. Đặc biệt, khi nghe tin bà Bảy qua đời và biết được rằng bà đã nhận ra hành vi gian dối nhưng vẫn âm thầm bỏ riêng số tiền giả, nhân vật "tôi" rơi vào trạng thái sững sờ, hối hận sâu sắc. Bốn mươi năm trôi qua, "tôi" vẫn luôn day dứt về lỗi lầm năm xưa, thường xuyên cùng Bá viếng thăm mộ bà để cầu mong sự tha thứ. Qua đó, nhân vật "tôi" hiện lên như một con người giàu tình cảm, biết trăn trở, suy nghĩ về lỗi lầm của mình. Hình ảnh ấy chính là bài học sâu sắc về lòng trung thực và sự hối lỗi muộn màng, nhắc nhở mỗi người phải luôn sống ngay thẳng, chân thành để không phải nuối tiếc về sau.

Câu 2 (4,0 điểm): Bài văn nghị luận về sự trung thực trong cuộc sống

Trung thực là một trong những phẩm chất cao quý của con người, thể hiện qua lời nói, hành động và suy nghĩ ngay thẳng. Một người trung thực không chỉ nhận được sự tin yêu từ người khác mà còn có được sự thanh thản trong tâm hồn. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, khi cuộc sống ngày càng thay đổi với nhiều cám dỗ, giá trị của lòng trung thực dường như đang bị thách thức hơn bao giờ hết.

Trung thực là sự thẳng thắn, chân thành, không gian dối trong lời nói và hành động. Một người trung thực luôn sống đúng với sự thật, không lừa dối bản thân hay người khác vì lợi ích cá nhân. Sự trung thực không chỉ thể hiện trong những việc lớn lao mà còn nằm trong từng hành động nhỏ bé hàng ngày.

Trung thực là nền tảng để xây dựng lòng tin trong các mối quan hệ và tạo nên một xã hội công bằng, lành mạnh. Đối với cá nhân, trung thực giúp con người sống thanh thản, không lo lắng bị phát hiện vì những lời nói dối. Những người trung thực thường được người khác tin tưởng, kính trọng và dễ dàng đạt được thành công bền vững. Đối với xã hội, sự trung thực giúp xây dựng một môi trường minh bạch, công bằng. Khi mỗi người đều trung thực, xã hội sẽ phát triển theo hướng tích cực, tránh được những tiêu cực như tham nhũng, gian lận hay lừa đảo.

Tuy nhiên, trong thực tế, không phải ai cũng giữ được lòng trung thực. Nhiều người vì lợi ích cá nhân đã dối trá, gian lận, gây ảnh hưởng đến người khác và làm mất đi niềm tin trong xã hội. Ví dụ, trong học tập, có những học sinh gian lận trong thi cử chỉ để đạt điểm cao, nhưng lại không thực sự có kiến thức. Trong kinh doanh, có những doanh nghiệp sẵn sàng lừa dối khách hàng để kiếm lợi nhuận, gây hậu quả nghiêm trọng.

Mỗi người cần rèn luyện và giữ gìn lòng trung thực trong mọi hoàn cảnh. Muốn vậy, cần có sự giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội để giúp mỗi cá nhân hiểu rõ giá trị của sự trung thực. Đồng thời, bản thân mỗi người cũng cần ý thức được trách nhiệm của mình, luôn sống ngay thẳng, không chạy theo những lợi ích trước mắt mà đánh mất đạo đức của chính mình.

Trung thực là phẩm chất quan trọng giúp con người xây dựng cuộc sống ý nghĩa và tốt đẹp hơn. Mỗi người cần tự nhắc nhở bản thân phải sống ngay thẳng, trung thực trong từng lời nói và hành động để góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 ĐIỂM) Đọc văn bản sau:        MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI        Quán bà Bảy Nhiêu nằm gần một khu mả đá, được bao bọc bởi những hàng rào bàn chải. Đó là một cái chòi tranh rách nát được dựng lên trước mặt một ngôi nhà tranh vách đất cũng rách nát như vậy. Trong chòi có đặt một cái bàn gỗ đã cũ, hai cái ghế băng cũng đã già nua như vậy, một cái đã hỏng...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 ĐIỂM)

Đọc văn bản sau:

       MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI

       Quán bà Bảy Nhiêu nằm gần một khu mả đá, được bao bọc bởi những hàng rào bàn chải. Đó là một cái chòi tranh rách nát được dựng lên trước mặt một ngôi nhà tranh vách đất cũng rách nát như vậy. Trong chòi có đặt một cái bàn gỗ đã cũ, hai cái ghế băng cũng đã già nua như vậy, một cái đã hỏng mất một chân. Trên chiếc bàn gỗ có xếp mấy lọ kẹo, đường táng, những thứ mà bà con nông dân tự làm lấy.

       Bà Bảy Nhiêu sống có một mình. Người trong làng không ai rõ chồng con bà đã mất từ lúc nào, mà cũng có thể là bà chưa có chồng con gì cả. Trước đây, mắt bà còn tinh nhưng độ hai năm nay bà bị lòa. Người ta bảo nhà bà ở gần động cát quá, nên gió thổi cát vào mắt nhiều lần, lâu ngày mà nó vậy.

       Chúng tôi nhao nhao:

       - Bán cho con một táng đường, bà.

       - Bán cho con hai viên kẹo bi, bà.

       Bà Bảy Nhiêu run run đưa bàn tay trái lên cầm tiền của chúng tôi, bỏ ngay vào cái cơi trầu bà đặt dưới bàn, tay phải quờ quờ lục vào các lọ lấy kẹo, đường cho từng đứa. Hầu như không bao giờ bà đếm tiền. Bà tin chúng tôi.

       Trưa hôm đó, sau hiệu lệnh của thằng Bá, tôi cho tay vào túi. Những tờ bạc lẻ mà mẹ tôi cho đã biến mất đâu. Tôi ngần ngừ một lúc nhưng nỗi thèm ngọt đã khiến cho tôi lủi thủi theo sau các bạn mong được “ăn ghẹ” của một đứa nào đấy. Giữa đường, nghĩ xấu hổ, tôi quay lại...

       - Sao mày không đi mua đường, mua kẹo? - Thằng Bá đi phía sau hỏi tôi.

       - Tao không có tiền.

       Bá cười sằng sặc:

       - Chớ hồi giờ tao đâu có tiền mà vẫn mua được kẹo.

       Tôi ngạc nhiên:

       - Chớ lâu nay mày mua bằng thứ gì?

       Bá không trả lời ngay. Nó kéo tôi sát lại gần nó, rút trong túi ra mấy tờ giấy đã viết, được cắt gọn ghẽ như những tờ giấy bạc, nói thì thầm:

       - Tao chuyên đưa bà Bảy những tờ giấy này. Bả mù, bà đâu có thấy. - Nó ngừng một lát rồi nói tiếp, - tao có ba tờ tao cho mày một tờ. Mày đợi tụi nó mua cuối cùng mình mới mua.

       Tôi ngần ngại một lát nhưng cuối cùng cũng cầm tờ giấy lộn. Tôi có cảm giác khi cầm tờ “bạc giả” của tôi, mắt bà Bảy Nhiêu như có tia sáng loé lên. Nhưng bà không nói gì, vẫn bỏ nó vào cơi trầu và đưa đường táng đen cho tôi.

       Ngày hôm sau, sự việc vẫn lặp lại y như hôm trước. Có điều, khi tôi và Bá đến quán thì không thấy có chuyện mua bán xảy ra. Các bạn đến trước đều đứng túm lại dưới quán nhìn sững vào trong nhà bà Bảy. Trong nhà có tiếng người lao xao. Một bác nông dân quen biết trong làng đang ngồi trước cửa vừa giờ cơi trầu của bà Bảy ra đếm tiền vừa nói vọng ra:

       - Tụi bay về đi. Bà Bảy trúng gió chết hồi hôm rồi.

       Chúng tôi sững sờ, đứng im không nhúc nhích. Bác nông dân lẩm bẩm điều gì quay vô nhà nói với ai đó: “Số tiền này vừa đủ mua một chiếc chiếu gói bả đấy.”. Im lặng một lúc rồi bác tiếp: “Bả mù mà tinh thật. Bọn xỏ lá nào đưa giấy lộn cho bả, bả cũng nhận rồi gói riêng ra...”. Tôi và Bá đứng như chôn chân xuống đất. Sống lưng lạnh buốt.

       Từ đó đến nay đã bốn mươi năm trôi qua. Bạn bè của tôi cũng không còn đông đủ như trước. Có những đứa vốn ngỗ ngược, sau này lại trở thành những du kích dũng cảm và hi sinh. Có nhiều đứa theo gia đình, bỏ quê xứ đi làm ăn xa. Thằng Bá bây giờ trở thành một nông dân, người gầy, rắn rỏi, ngày ngày đánh trâu cày trên những rộc cát khô khốc mong tìm từng củ khoai để nuôi bầy con cháu đông đúc. Riêng tôi may mắn, được đi tập kết, được học hành để trở thành một nhà văn. Cứ mỗi lần về quê, tôi lại rủ Bá ra thăm mả bà Bảy Nhiêu. Cả hai đứa đều đứng lặng, miệng lầm rầm cầu mong bà tha thứ...

       Trong đời, có những điều ta đã lầm lỡ, không bao giờ còn có dịp để sửa chữa được nữa.

(Thanh Quế, Trích 65 truyện ngắn hay dành cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định thể loại của văn bản.

Câu 2 (0,5 điểm). Chỉ ra ngôi kể được sử dụng trong văn bản.

Câu 3 (1,0 điểm). Nhận xét về cốt truyện của văn bản.

Câu 4 (1,0 điểm). Nội dung của văn bản này là gì?

Câu 5 (1,0 điểm). Em hiểu như thế nào về câu: "Trong đời, có những điều ta đã lầm lỡ, không bao giờ còn có dịp để sửa chữa được nữa."?

1
7 tháng 3

Câu 1 (0,5 điểm):
Văn bản thuộc thể loại truyện ngắn.

Câu 2 (0,5 điểm):
Văn bản sử dụng ngôi kể thứ nhất, nhân vật "tôi" là người kể chuyện.

Câu 3 (1,0 điểm):
Cốt truyện của văn bản có tính đơn giản nhưng xúc động, xoay quanh kỷ niệm tuổi thơ của nhân vật "tôi" và bạn bè với bà Bảy Nhiêu. Truyện có một tình huống bất ngờ khi bà Bảy Nhiêu qua đời, làm bật lên sự ăn năn, hối hận của các nhân vật. Câu chuyện có kết cấu chặt chẽ, mở đầu bằng những ký ức tuổi thơ hồn nhiên, cao trào ở hành động lừa bà Bảy của nhóm trẻ, và kết thúc bằng sự day dứt không thể sửa chữa của nhân vật chính.

Câu 4 (1,0 điểm):
Văn bản phản ánh bài học sâu sắc về lòng trung thực và sự hối hận muộn màng. Qua câu chuyện, tác giả muốn nhấn mạnh rằng những sai lầm trong cuộc sống có thể để lại sự day dứt mãi mãi, vì không phải lúc nào cũng có cơ hội để sửa chữa. Đồng thời, truyện cũng thể hiện tấm lòng bao dung và nhân hậu của bà Bảy Nhiêu, dù bị lừa nhưng vẫn không trách mắng, vẫn đối xử tử tế với lũ trẻ.

Câu 5 (1,0 điểm):
Câu nói nhấn mạnh rằng có những sai lầm trong cuộc đời không thể quay lại để sửa chữa. Một khi đã gây ra tổn thương cho người khác, có thể chúng ta sẽ mãi mãi sống trong sự hối hận mà không thể làm gì để bù đắp. Câu chuyện nhắc nhở con người phải biết sống trung thực, tử tế ngay từ đầu, tránh những hành động sai lầm mà sau này có thể không còn cơ hội để sửa đổi.

Văn bản Mẹ và quảCâu 1: Văn bản “Mẹ và quả” được sáng tác theo thể loại nào?A. Tự do                                   B. Thất ngôn tứ tuyệt Đường luậtC. Lục bát                                 D. Ngũ ngônCâu 2: Văn bản “Mẹ và quả” sử dụng phương thức biểu đạt chính nào?A. Miêu...
Đọc tiếp

Văn bản Mẹ và quả

Câu 1: Văn bản “Mẹ và quả” được sáng tác theo thể loại nào?

A. Tự do                                   B. Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật

C. Lục bát                                 D. Ngũ ngôn

Câu 2: Văn bản “Mẹ và quả” sử dụng phương thức biểu đạt chính nào?

A. Miêu tả                                            B. Nghị luận

C. Tự sự                                                D. Biểu cảm

Câu 3: Câu thơ “Con hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/Mình vẫn còn một thứ quả non xanh” sử dụng những biện pháp tu từ nào?

A. Điệp ngữ và nói giảm nói tránh                       B. Hoán dụ và ẩn dụ

C. Nhân hóa và ẩn dụ                                           D. Ẩn dụ và nói giảm nói tránh

Câu 4: Qua bài thơ, người mẹ hiện lên là một con người như thế nào?

A. Là một người hiền lành, thật thà.

B. Là một người yêu thương con.

C. Là một người phụ nữ yêu thương con, tần tảo, vất vả, giàu đức hi sinh.

D. Là một người phụ nữ chăm chỉ.

1
6 tháng 3

1A 2C 3D 4C

ĐẤY NHÉ BẠN!!!!