Viết bài văn phân tích tác phẩm Tức cảnh Pác Bó của chủ tích Hồ Chí Minh
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 1: Văn bản trên viết về vùng đất Hà Nội và Bắc Việt.
Câu 2: Câu văn chứa yếu tố trữ tình: "Nhớ không biết bao nhiêu là nhớ, nhớ sao nhớ quá thế này!"
Câu 3: Cảm xúc chủ đạo của văn bản trên là nỗi nhớ da diết, niềm thương mến sâu sắc của tác giả đối với Hà Nội và Bắc Việt.
Câu 4: Hiệu quả của câu hỏi tu từ được sử dụng trong đoạn (2) của văn bản:
$-$ Nhắc lại những địa danh, cảnh vật quen thuộc của Hà Nội và Bắc Việt để khơi gợi nỗi nhớ da diết trong lòng tác giả.
$-$ Gợi lên sự quan tâm, lo lắng của tác giả về sự thay đổi của cảnh vật và con người nơi quê hương.
$-$ Nhấn mạnh nỗi nhớ nhung, khắc khoải của tác giả.
Câu 5: Chủ đề của văn bản: Nỗi nhớ và tình yêu sâu sắc của tác giả dành cho Hà Nội và Bắc Việt.
Câu 6: Thông điệp sau khi đọc văn bản:
$-$ Tình yêu quê hương là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp.
$-$ Dù đi xa, dù thời gian trôi qua, ta vẫn luôn nhớ về quê hương với những gì thân thương nhất.
$-$ Cần trân trọng và giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của quê hương.
Câu 7: Cái tôi của tác giả được thể hiện qua văn bản:
$-$ Là một người con xa quê, luôn hướng về quê hương với tình cảm yêu thương, gắn bó sâu nặng.
$-$ Có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, biết rung động trước những cảnh vật bình dị của quê hương.
$-$ Có khả năng ngôn ngữ phong phú, sử dụng nhiều biện pháp tu từ để thể hiện cảm xúc.
Câu 1: Văn bản viết về vùng đất Hà Nội và Bắc Việt (miền Bắc Việt Nam).
Câu 2: "Nhớ không biết bao nhiêu, nhớ bát canh rau sắng chùa Hương, nhớ khóm tiễn xuân la trồng ở bên giậu trúc..."
Câu 3: Cảm xúc chủ đạo của văn bản là tình yêu và nỗi nhớ sâu sắc đối với Hà Nội và Bắc Việt, những hình ảnh và kỷ niệm quý giá trong quá khứ.
Câu 4: Câu hỏi tu từ được sử dụng trong đoạn (2) giúp tạo ra sự sống động, hình ảnh chi tiết và sâu sắc về những nơi và khoảnh khắc trong quá khứ, đồng thời khơi gợi cảm xúc của đọc giả và tạo ra một không gian tưởng tượng sống động.
Câu 5: Chủ đề của văn bản là sự yêu thương và kỷ niệm về Hà Nội và Bắc Việt, sự gắn bó sâu sắc với quê hương và những hình ảnh, trải nghiệm trong quá khứ.
Câu 6: Thông điệp của văn bản là sự gắn bó mãnh liệt và không thể phai nhạt của con người với quê hương, với những kỷ niệm và hình ảnh đẹp đẽ của tuổi thơ và quá khứ. Nó cũng gợi lên ý nghĩa và giá trị của việc giữ gìn và tôn trọng nguồn gốc văn hóa, địa danh của mình.
Câu 7: Tác giả thể hiện cái tôi qua việc miêu tả và tả lại những cảm xúc, kỷ niệm và tình cảm của mình đối với Hà Nội và Bắc Việt. Qua đó, tác giả thể hiện sự nhạy cảm, sâu sắc và tình cảm mãnh liệt đối với quê hương và bản sắc văn hóa của mình.
một lò xo xo có chiều dài tự nhiên là 10 cm nếu treo một vật có khối lượng 200g thì lò xo có chiều dài 14cm
a) tìm độ dãn của lò xo khi treo vật
b) tìm chiều dài của lò xo khi treo vật có khối lượng 0,35 kg
c) tìm khối lượng của vật khi lò xo có chiều dài 1,78 dm
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của khổ thơ trên là biểu cảm.
Câu 2:
$-$ Nghĩa đen: Bác Hồ đã sống qua bảy mươi chín mùa xuân, tượng trưng cho một cuộc đời dài và đầy cống hiến.
$-$ Nghĩa bóng: Bảy mươi chín mùa xuân là biểu tượng cho sự trường tồn, vĩnh cửu của Bác trong lòng dân tộc.
Câu 3:
$-$ Biện pháp tu từ: Ẩn dụ
$\Rightarrow$ Tác dụng:
$+$ So sánh Bác Hồ với “mặt trời”:
$-$ Bác là nguồn sáng soi đường cho dân tộc, là niềm tin và hy vọng của nhân dân.
$-$ Hình ảnh “mặt trời trong lăng rất đỏ” thể hiện sự vĩnh cửu, bất diệt của Bác trong lòng dân tộc.
$+$ Khổ thơ sử dụng điệp ngữ “ngày ngày”:
$-$ Nhấn mạnh sự lặp lại liên tục, không ngừng nghỉ, thể hiện sự trân trọng, yêu kính của nhân dân đối với Bác.
$-$ Gợi ra sự liên tục, vĩnh cửu của hình ảnh Bác Hồ trong lòng dân tộc.
Không chỉ là nhà hoạt động cách mạng kiên trung, bất khuất Bác còn là một con người hết sức lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt. Những vần thơ hóm hỉnh như:
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say
Những vần thơ như vậy xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm của Bác. Đặc biệt trong thời gian đầu cuộc kháng chiến của dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, phải hoạt động nơi rừng núi Cao Bằng, nhưng không vì thế mà tinh thần ung dung, lạc quan bị mất đi. Nó được thể hiện rõ nét nhất trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó.
Mở đầu bài thơ gợi nên không gian hoạt động bí mật của Người ở Việt Bắc: Sáng ra bờ suối tối vào hang. Câu thơ tạo thành hai vế rất cân đối với nhau, thời gian sáng tối, không gian suối – hang, hoạt động ra – vào, cho thấy nhịp sinh hoạt hết sức nề nếp, đều đặn và hết sức nhịp nhàng của người.
Đồng thời cũng cho thấy không gian hoạt động bí mật và còn hết sức khó khăn. Trong giai đoạn đầu, cách mạng còn non yếu, chưa có thế và lực nên phải hoạt động bí mật và gặp nhiều khó khăn nhưng người chiến sĩ cách mạng vĩ đại vẫn hết sức ung dung, tự tại. Quy luật vận động đó cũng khẳng định tinh thần làm chủ hoàn cảnh, chủ động, lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.
Không chỉ khó khăn, thiếu thốn trong không gian sống, mà sự khó khăn ấy còn hiện lên trong cả bữa ăn, nơi làm việc của Bác:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Câu thơ cho thấy tâm thế ung dung, lạc quan của Bác. Núi rừng thiên nhiên Việt Bắc vẫn luôn sẵn sàng cháo bẹ, rau măng phục vụ cho người chiến sĩ cách mạng. Câu thơ vừa cho thấy cái gian khổ, khắc nghiệt mà Bác phải đối mặt, nhưng đằng sau đó còn là nụ cười hóm hỉnh của một con người tuy sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn hết sức lạc quan yêu đời.
Và hàng ngày Người vẫn ngồi bên bàn đá chông chênh viết Đường cách mệnh, phục vụ cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Hai chữ chông chênh gợi lên tư thế không chắc chắn, không vững vàng, cho thấy những khó khăn chất chồng của hiện thực cuộc kháng chiến. Nhưng trên nền hoàn cảnh khắc nghiệt đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn vượt lên để hoàn thành nhiệm vụ, để thực hiện nghĩa vụ, lí tưởng cao đẹp của mình, quả đáng trân trọng và khâm phục.
Dù hoạt động cách mạng gian khổ là vậy, nhưng câu kết của toàn bài lại đem đến cho người đọc sự bất ngờ, mà cao hơn chính là cảm phục: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Sang được hiểu là sang trọng, đầy đủ. Nhưng trong hoàn cảnh của Bác, ăn uống, nghỉ ngơi thiếu thốn trăm bề liệu có thật sang không?
Đối với Bác điều đó không phải sang, mà cái sang nhất ở đây chính là dịch sử Đảng, là được hoạt động cách mạng để thực hiện lí tưởng đẹp đẽ của mình, đem lại độc lập, tự do, cho dân tộc. Giọng điệu thơ tự nhiên, dí dỏm, mà cũng rất khẩu khí, khẳng định tinh thần thép của người chiến sĩ cách mạng.
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ý tại ngôn ngoại, lời thơ hàm súc cô đọng, cùng với giọng điệu thơ hỏm hỉnh, vui đùa đã làm nổi bật lên chân dung người chiến sĩ cách mạng. Đó là một con người mang trong mình phong thái ung dung, lạc quan, mang trong mình lí tưởng cao đẹp, cứu nước, cứu đời.
hủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người không chỉ là một nhà quân sự tài ba, một vị lãnh tụ vĩ đại mà còn là một người nghệ sĩ chân chính . “Tức cảnh Pác Bó” được Bác Hồ sáng tác tại hang Pác Bó thuộc tỉnh Cao Bằng vào năm 1941. Bài thơ có thể coi là một trong những sáng tác đặc sắc nhất trong đời hoạt động nghệ thuật của Người.
Tại hang Pác Bó, Người đã sống trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thiếu thốn và gian khổ nhưng trong hoàn cảnh ấy, Người vẫn vui vẻ, lạc quan…
Trước hết, hai câu thơ mở đầu đã tái hiện cuộc sống của Bác tại hang Pác Bó:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
Hai câu thơ đã gợi mở không gian, thời gian và hoàn cảnh Bác sống rất cụ thể. Câu thơ đầu “Sáng ra bờ suối, tối vào hang” với nhịp ¾ cùng hình ảnh đối “sáng- tối”, “ra- vào” gợi nhịp sống đều đặn của Bác Hồ. Không gian sống, không gian sinh hoạt của người là ở “suối”, là “hang”, là những nơi thâm sâu cùng cốc, những nơi con người thường e ngại, không muốn sống tại đó. Tuy nhiên, đọc câu thơ, ta lại thấy tâm thế rất ung dung, chủ động đón của Bác.
Và bữa ăn của Bác cũng hết sức đạm bạc, thanh dã đó là có cháo bẹ, có rau măng. Đây là những bữa ăn quen thuộc của Bác, lấy nguyên liệu sẵn có từ tự nhiên nơi núi rừng và nó cũng gợi ta nghĩ về cuộc sống sinh hoạt của các bậc trí thức ngày trước. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, những bữa ăn có cơm ngon là điều rất khó. Nhưng Người lại nói “vẫn sẵn sàng”. Điều này cho thấy tinh thần rất lạc quan của Người…
Không chỉ sống trong không gian đầy hiểm trở với những bữa ăn đạm bạc mà bàn làm việc của Bác với:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Phiến đá bên bờ suối Lenin gợi ra sự không cân bằng, nhấp nhô nhưng vượt lên trên tất cả, Người vẫn quyết tâm làm việc. Người không ngại ngần những gian khổ để tìm ra con đường đi đúng cho dân tộc mình. Người cần tìm một lý tưởng đúng đắn. Như vậy, tại hang Pác Bó, với những bữa ăn thanh đam, với chỗ làm việc trên một phiến đá, những vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc ta vẫn sẵn sàng đón nhận, coi như đó là một lẽ tự nhiên trong cuộc đời. Hỏi rằng trên thế giới này có mấy vị lãnh tụ nào giống Bác?
Ba câu đầu, Bác tập trung nói về không gian mình sinh sống, làm việc và đến câu thơ cuối, Người cho rằng:
"Cuộc đời Cách mạng thật là sang”
Vì sao cuộc sống ở nơi thâm sâu cùng cốc đó, Người lại cho là “sang”? Cái "sang” ở đây có lẽ không phải đến từ những thức ăn, từ nơi làm việc mà “sang” vì tại đây, Người đã sống một cuộc đời Cách mạng, một cuộc đời cống hiến, vì nhân dân, vì đất nước và đó là một cuộc đời đầy ý nghĩa.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, súc tích, qua đó chúng ta đã thấy chân dung tinh thần của một vị lãnh tụ- một con người không ngần ngại những gian khổ, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng vì dân vì đất nước.
Mỗi lần đọc bài thơ, ta lại nhớ đến hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Thế mới biết rằng hòa bình mà chúng ta đang hưởng, cuộc sống không có bom rơi đạn nổ ngày nay đã phải đổi lấy bao mồ hôi, công sức của lớp lớp thế hệ đi trước. Do đó, là những con người được sống trong bối cảnh hiện đại, không nghe thấy tiếng súng, chúng ta phải gìn giữ hòa bình, phải gắng sức đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ lúc sinh thời từng mong muốn.