Bài 1. Nhóm từ nào gồm toàn các từ láy?
a. lung linh, lấp lánh, long lanh, lấp ló, lớn lên
b. mênh mông, mờ mịt, mấp mé, mũm mĩm
Bài 2. Từ láy “xanh xao” dùng để tả màu sắc của đối tượng:
A. da người B. lá cây còn non C. lá cây đã già D. trời.
Bài 3. Đoạn thơ sau có bao nhiêu từ láy?
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời
Tay nhè nhẹ chút, người ơi
Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng.
Mảnh sân trăng lúa chất đầy
Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình
Nắng già hạt gạo thơm ngon
Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho.
A. 3 B. 4 C. 5 D. 6
Bài 4. Đoạn văn sau có bao nhiêu từ láy?
"Bản làng đã thức giấc. Đó đây, ánh lửa hồng bập bùng trên các bếp. Ngoài bờ ruộng đã có bước chân người đi, tiếng nói chuyện rì rầm, tiếng gọi nhau í ới.Tảng sáng, vòm trời cao xanh mênh mông. Gió từ trên đỉnh núi tràn xuống thung lũng mát rượi."
A. 3 B. 4 C. 5 D. 6
Bài 5. Đoạn văn sau có bao nhiêu từ láy?
“Biển luôn thay đổi tuỳ theo màu sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng thẳm xanh, như dâng cao lên chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ. Như một con người biết buồn vui. Biển lúc tẻ nhạt, lạnh lùng, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng.”
A. 5 B. 6 C. 7 D. 8
Bài 6. Đoạn thơ sau có bao nhiêu từ ghép
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi"
(Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)
A. 2 B. 3 C. 4
Bài 7. Đâu là từ láy?
A. cỏ cây B. lấp ló C. thân thương D. mơ mộng
Bài 8. Đâu là từ ghép?
A. xanh xao B. gầy gò C. chờ đợi D. mênh mông
Bài 9 . Đâu là từ láy toàn bộ?
A. lấp ló B. mờ mịt C. gập ghềnh D. đo đỏ
Bài 10. Đâu là từ ghép phân loại?
A. ăn uống B. chạy nhảy C. con gà D. quần áo
Bài 11. Đâu là đáp án chỉ có từ láy?
A. lạnh lùng, thăm thẳm, gồ ghề B. máy tính, trăng trắng, mấp mé C. thấp thoáng, hoa lan, quả mận
Bài 12. Nhóm từ nào dưới đây không phải nhóm các từ láy:
a. mơ màng, mát mẻ, mũm mĩm b. mồ mả,máu mủ,mơ mộng
c.mờ mịt, may mắn, mênh mông d.cả a,b,c đều đúng
Bài 13 . Gạch chân các từ không phải là từ ghép:
a. mơ màng, mơ ước, mơ mộng, giấc mơ b. lo lắng, lo nghĩ, lo sợ, buồn lo
c. nhớ mong, nhớ nhung, nhớ thương d. nhỏ nhẹ, nhỏ bé, nhỏ to, nhỏ nhất
Bài 14. Câu “ Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất ” có :
A. 2 từ đơn, 3 từ phức. B. 3 từ đơn, 3 từ phức.
C. 4 từ đơn, 2 từ phức D. 2 từ đơn, 4 từ phức.
Bài 15. Trong đoạn văn sau có mấy tính từ ?
“ Trời mây xám xịt, mưa ngâu rả rích. Xuân rón rén bước đi trên con đường lầy lội. ”
A. 2. B. 3 . C. 4. D. 5.
Bài 16. Dòng nào sau đây không toàn từ láy ?
A. sợ sệt, sạch sẽ, san sẻ, sục sạo. B. mềm mại. mát mẻ, muộn màng.
C. tươi tắn, tí tách, tập tễnh, thơ thẩn. D. lạnh lẽo, lấp lánh, lung linh, lo lắng.
Bài 17. Trong câu “ Hoa mặt trời có nhiều loại, loại cánh đơn màu đỏ cờ, cánh sen, loại cánh ké màu hồng và còn có màu đỏ rực như tiết. ” Dấu phẩy thứ nhất có thể thay thế bằng dấu câu nào ?
A. Dấu chấm lửng B. Dấu chấm. C. Dấu hai chấm. D. Dấu chấm phẩy.
Bài 18. Trong câu : “ Hồn tôi hóa thành chiếc sáo trúc nâng ngang môi chú bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu. ” có mấy động từ
A. 1 B. 2 C. 3 D. 4
Bài 19. Trong câu “Tới nương, A Cháng mắc cày xong, quát một tiếng “ Mổng !” và bây giờ chỉ còn chăm chắm vào công việc.” Từ “ chăm chắm ” trong câu trên có nghĩa là gì ?
A. Ở tư thế ngay ngắn, nghiêm trang. B. Siêng năng làm việc.
C. Trông coi, săn sóc tỉ mỉ, kỹ lưỡng. D. Chú ý tập trung cao độ vào công việc.
Bài 20. Câu nào dưới đây là câu kể Ai làm gì ? có đại từ làm chủ ngữ ?
A. Chị sẽ là chị của em mãi mãi. B. Một mùa xuân mới lại đến.
C. Tôi nhìn con cười trong hai hàng nước mắt. D. Tôi chẳng cần làm lụng gì nữa.
Bài 21. Bộ phận nào là vị ngữ trong câu : “ Đáng quý biết bao nhiêu sự hi sinh thầm lặng ấy”.
A. thầm lặng ấy B. sự hi sinh thầm lặng ấy C. đáng quí biết bao nhiêu D. đáng quí
Bài 22. Từ chín thứ nhất trong câu : “ Một nghề cho chín còn hơn chín nghề ” có nghĩa là gì ?
A. Số tiếp theo số 8 trong dãy số tự nhiên
B. Quả hoặc hạt ở vào giai đoạn phát triển đầy đủ nhất thường có màu đỏ hoặc vàng có hương thơm vị ngọt.
C. Thức ăn được nấu nướng kĩ đến mức ăn được ( trái nghĩa với sống ).
D. Sự suy nghĩ ở mức đầy đủ để có được hiệu quả.
Bài 23. Cụm từ “bị sặc nước” trong câu “ Mấy chú dế bị sặc nước loạng choạng bò ra khỏi tổ” giữ chức vụ gì ?
A. Chủ ngữ B. Vị ngữ C. Định ngữ D. Bổ ngữ
Bài 24. Từ “ vạt ” trong hai câu “ Chú Tư lấy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre ” và “ Vạt áo chàm thấp thoáng nhuộm xanh cả nắng chiều ” có quan hệ gì với nhau?
A. Từ nhiều nghĩa B. Từ đồng âm C. Từ trái nghĩa D. Từ đồng nghĩa
Bài 25. Từ : đầu, mắt, nhà trong các từ : đầu bàn, mắt na, nhà nghèo. Từ nào mang nghĩa chuyển
A. Chỉ có từ đầu mang nghĩa chuyển B. Chỉ có từ mắt mang nghĩa chuyển
C. Chỉ có mắt và nhà mang nghĩa chuyển D. Cả ba từ điều mang nghĩa chuyển
Bài 26. Trong các từ có chứa tiếng vui sau đây, từ nào vừa dùng để chỉ tính tình vừa chỉ cảm giác ?
A. vui chơi B. vui thích C. vui tính D. vui vẻ
Bài 27. Trong các từ : lạc quan, quan quân, quan hệ, quan tâm, từ nào có tiếng quan có nghĩa là nhìn xem ?
A. lạc quan. B. quan quân. C. quan tâm. D. quan hệ.
Bài 28. Cho các kết hợp hai tiếng sau : xe đạp, xe hỏa, xe hơi, xe cộ, xe đẩy, xe kéo, đạp xe, đẩy xe, kéo xe, khoai nướng, khoai luộc, luộc khoai, bánh kẹo, bánh dẻo, bánh nướng, bánh rán, rán bánh, nướng bánh.
Có bao nhiêu kết hợp là từ ghép, bao nhiêu kết hợp gồm hai từ đơn ?
A. 10 từ ghép, 8 kết hợp là hai từ đơn B. 14 từ ghép, 3 kết hợp là hai từ đơn
C. 13 từ ghép, 5 kết hợp là hai từ đơn D. 12 từ ghép, 6 kết hợp là hai từ đơn
Bài 29. Dòng nào sau đây gồm những từ ghép có nghĩa phân loại ?
A. hoa lan, bạn bè, áo khoác, ghế tựa. B. cua bể, tôm càng, cá kho, quà bánh.
C. bánh rán, hoa quả, cá kho, hoa lan. D. Bánh mì, cá trắm, tôm hùm, hoa huệ.
Bài 30. Chủ ngữ của câu “Cái hương vị ngọt ngào nhất của tuổi học trò còn đọng lại mãi trong tâm hồn chúng em” là :
A. Cái hương vị ngọt ngào nhất B. Cái hương vị ngọt ngào nhất của tuổi học trò
C. Cái hương vị D. Cái hương vị ngọt ngào
Bài 31. Từ nào có tiếng “ngọt” mang nghĩa chuyển ?
A. nói ngọt B. mật ngọt C. cam ngọt D. trái ngọt
Bài 32. Từ nào dưới đây viết sai lỗi chính tả :
A. tất niên B. tất đất C. tất cả D. tất bật
Bài 33. Từ đồng nghĩa với từ gạch chân có thể điền hợp lý vào chỗ trống trong câu dưới đây là từ nào ?
Tôi cảm nhận được nỗi lưu luyến của bà tôi và cùng với cảm giác đó, tôi nhận ra vẻ hài lòng ................ ở ánh mắt bà
A. mãn nguyện B. vui vẻ C. phấn khởi D. thích thú
Bài 34. Dòng nào dưới đây có các từ cây đều được dùng theo nghĩa gốc
A. Cây rau, cây rơm, cây hoa B. Cây lấy gỗ, cây cổ thụ, cây bút
C. Cây lá đỏ, cây xanh, cây ăn quả D. Cây mít, cây đàn, cây đèn bàn
Bài 35. Trong các câu sau, từ bản trong những câu nào là từ đồng âm ?
a. Con đường từ huyện lị vào bản tôi rất đẹp.
b. Phô tô cho tôi thành 2 bản nhé!
c. Làng bản, rừng núi chìm trong sương mù.
Bài 36. Trong các từ bén dưới đây, từ nào là từ đồng âm, từ nào là từ nhiều nghĩa ?
a. Cậu bé đi vội vã, chân bước không bén đất.
b. Họ đã quen hơi bén tiếng.
c. Con dao này bén (sắc) quá.
Bài 37. Từ láy được phân thành mấy loại?
A. Hai loại B. Ba loại C. Bốn loại D. Không thể phân loại được
Bài 38. Từ “tươi tốt” có phải từ láy không?
A. Có B. Không
Bài 39. Tìm từ láy trong câu sau: “Mặt mũi nó lúc nào cũng nhăn nhó như bà già đau khổ ”?
A. Mặt mũi B. Nhăn nhó C. Bà già D. Đau khổ
Bài 40. Từ “nhem nhuốc” là từ láy toàn phần, đúng hay sai?
A. Đúng B. Sai
Bài 41. Trong câu “Đêm qua, lúc nào chợt tỉnh, tôi cũng nghe tiếng nức nở, tức tưởi của em.” Có mấy từ láy?
A. 1 từ B. 2 từ C. 3 từ D. 4 từ
Bài 42. Từ “thoang thoảng” là từ láy được xếp vào nhóm nào?
A. Từ láy bộ phận B. Từ láy toàn phần C. Cả A và B đều đúng D. Cả A và B sai
Bài 43:Tiếng “nhân” trong từ nào dưới đây có nghĩa là người?
a. Nhân tài. b. Nhân từ. c. Nhân ái.
Bài 44: Từ nào sau đây có đủ cả ba bộ phận của tiếng?
a. ta b. oán c. ơn
Bài 45. Trong ba bộ phận của tiếng, bộ phận nào có thể không có?
a. Vần b. Thanh c. Âm đầu
Bài 46. Bộ phận âm đầu của tiếng "quà" là gì?
a. q b. qu c. Cả hai ý trên
Bài 47 . Bộ phận vần của tiếng "oán" là gì?
a. oa b. an c. oan
Bài 48. Tiếng "ưa" có những bộ phận nào?
a. Âm đầu "ưa", vần "a" , thanh ngang.
b. Âm đầu "ưa", vần ưa", không có thanh.
c. Không có âm đầu, vần" ưa", thanh ngang.
Bài 49. Dấu hai chấm trong đoạn văn sau có tác dụng gì?
Chợt người phụ nữ quay sang tôi nói: "Tôi cảm thấy rất ái ngại! Chỉ vì nhường chỗ cho tôi mà cô lại gặp khó khăn như vậy. Cô biết không, nếu hôm nay tôi không gửi phiếu thanh toán tiền gas, thì công ti điện và gas sẽ cắt hết nguồn sưởi ấm của gia đình tôi."
a. Báo hiệu bộ phận đứng sau dấu hai chấm là lời nói trực tiếp của nhân vật.
b. Báo hiệu bộ phận câu đứng sau dấu hai chấm là lời giải thích cho bộ phận đứng trước nó.
c. Cả hai ý trên.
Bài 50. Nhóm từ nào sau đây toàn là từ ghép:
a. vận động viên, đường chạy, sẵn sàng, cuộc thi, tín hiệu, xuất phát.
b. vị trí, vòng cua, vận động viên, đường, đua, đường chạy, sợ hãi.
c. loạng choạng, khu vực, đá dăm, đường đua, cuộc thi, xuất phát.
Bài 51. Nhóm nào sau đây toàn từ láy?
a. đường đua, tiếp tục, khập khiễng, bền bỉ, cuối cùng, lo lắng.
b. lẩy bẩy, khập khiễng, rạng rỡ, âu yếm, đám đông, khó khăn, đau đớn.
c. khập khiễng, rạng rỡ, bền bỉ, lo lắng, khó khăn , đau đớn.
Bài 52. Dấu hai chấm trong chuỗi câu sau có tác dụng gì?
“Tôi cất tiếng hỏi lớn:
-Ai đúng chóp ba bọn này? Ra đây ta nói chuyện”.
a. Để dẫn lời nói trực tiếp của nhân vật.
b. Báo hiệu bộ phận đứng sau giải thích cho bộ phận đứng trước.
c. Báo hiệu một sự liệt kê.
Bài 53.Câu sau có bao nhiêu từ phức?
“Nhờ bạn giúp đỡ, lại có chí học hành, nhiều năm liền Hạnh là học sinh tiên tiến.”
a.4 b.5 c.6.
Bạn tham khảo nha !!!
Bỉ Ngạn hoa khai khai bỉ ngạn,
Vong Xuyên hà bạn diệc vong xuyên.
Nại Hà kiều đầu không nại hà,
Tam Sinh thạch thượng tả tam sinh.
(Nhật kí của Trọng Duy Ly)
Nếu bạn là tín đồ của ngôn tình thì ai cũng biết về hoa Bỉ Ngạn vì hầu như các truyện đều nhắc đến nó như một biểu tượng của tình yêu trác việt. Nhưng chắc có ai đã hiểu biết rõ ràng, đầy đủ về loài hoa kiêu sa, xinh đẹp này. Không những có một vẻ đẹp yêu mị, sắc đỏ như máu huyết, bỉ ngạn hoa còn gắn với một truyền thuyết vô cùng kì bí. Nhắc đến hoa bỉ ngạn khiến ai cũng nghĩ đến một mối tình tuyệt đích nhưng cũng tuyệt vọng.
Hoa Bỉ ngạn được biết đến đầu tiên ở Trung Quốc. Người Trung Quốc vốn đã xem nó là một loài hoa quý, có sức quyến rũ kì lạ, vừa đáng yêu lại vừa đáng sợ. Hoa bỉ ngạn cũng được tìm thấy ở Nhật Bản và một số nơi khác ở châu Á.
Loài cây này được trông thấy ở Hoa kỳ lần đầu tiên năm 1854. Đó là khi Hoa Kỳ mở cửa thương mại cho Nhật Bản. Thuyền trưởng William Roberts trong một lần trở lại Hoa kỳ đã mang theo loài Lycoris radiata này từ Nhật. Ông mang theo 3 cây, và những cây này được trồng và chăm sóc bởi cô cháu gái. Sau một thời gian chăm sóc và cô thấy rằng loài cây này không nở hoa cho đến khi sau một cơn mưa đầu mùa của mùa thu. Kể từ đó, theo bước chân của các thuyền buôn, hoa bỉ ngạn nổi tiếng trên toàn thế giới.
Cây hoa bỉ ngạn có tên khoa học là Lycoris Radiata. Cây có nguồn gốc từ Trung Quốc và phát triển ở một số nước như Nhật Bản, Hoa Kỳ và có du nhập về Việt Nam trong thời gian gần đây.
Ngoài cái tên chính Bỉ Ngạn hoa, loài hoa này còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như: Mạn Châu Sa Hoa, Hồng hoa Thạch Toán, Thạch Toán, Long Trảo hoa, Vô Nghĩa thảo, San Ô Độc, U Linh hoa, hoa Địa Ngục, Tử Nhân hoa, Vong Xuyên hoa.
Hoa bỉ ngạn có 3 màu sắc chính là đỏ, vàng, trắng. Trong đó, màu đỏ là màu chủ đạo. Hoa màu trắng gọi là Mạn Đà La Hoa (mandarava), hoa màu đỏ gọi là Mạn Châu Sa Hoa (Manjusaka). Sắc hoa đỏ như máu huyết, trông nhìn hết sức ấn tượng.
Bỉ Ngạn là giống cây thân thảo, có chiều cao trung bình 40-100 cm thường mọc hoang trên những triền đồi, đôi bờ sông, ven đường đi, những bờ ruộng và rất nhiều trong nghĩa địa. “Củ” của loài hoa này rất độc vì chứa lycorine, một chất độc thuộc nhóm alcaloid, gây tổn hại đến hệ thần kinh. Truyền thuyết kể rằng có người đã tuyệt mệnh bằng cách ăn “củ” của loài hoa này trong lúc đói. Có lẽ vì thế, thời xa xưa, người Nhật cho rằng đó là loài hoa của điềm gở và chết chóc.
Người ta còn lấy ngày hoa bỉ ngạn nở để đoán định thời gian. Trong một năm có 2 ngày mặt trời chiếu thẳng góc xuống xích đạo, vào thời điểm đó độ dài của ngày và đêm bằng nhau, đó là ngày xuân phân và thu phân. Ba ngày trước và sau xuân phân gọi là Xuân Bỉ Ngạn, ba ngày trước và sau thu phân gọi là Thu Bỉ Ngạn. Hoa Bỉ Ngạn nở vào Thu Bỉ Ngạn, thời gian rất chính xác cho nên mới gọi là hoa Bỉ Ngạn.
Đây cũng là thời gian mà theo lời dạy của phật trong thời gian 7 ngày của mùa thu, người sống có thể đi vào thế giới của người chết để gặp gỡ ông bà tổ tiên.
Với người Nhật, đây cũng là dịp họ đi thăm viếng sửa sang mồ mả của những người đã khuất. Trong dân gian người ta cho rằng Bỉ Ngạn là cửa ngõ để đi vào thế giới của những người đã chết, cũng có người lại nói rằng, vào những ngày người trần gian gặp người âm giới, Bỉ Ngạn là nơi trú ngụ của những linh hồn.
Các cây Bỉ Ngạn thường được trồng ở những khu vực có hệ thống thoát nước tốt để các bông hoa không bị tổn hại và phát triển bình thường. Đặc biệt là khu vực trồng cũng không bị ảnh hưởng bởi gió quá nhiều vào những tháng mùa đông. Bỉ Ngạn không thích nhiệt. Nó thích một môi trường ấm áp. Khi nhiệt độ vào mùa hè quá cao, các cây Bỉ Ngạn sẽ chết
Để trồng được một khóm hoa bỉ ngạn cũng không hề khó. Cây hoa bỉ ngạn ưa bóng mát nên bạn cần ưu tiên lựa chọn những vùng đất dốc để có khả năng thoát nước tốt. Trồng cây vào thời gian tốt nhất thường là cuối đông đầu xuân. Bạn vẫn có thể trồng vào các mùa trong năm. Nếu trồng vào mùa hè thì cây vẫn phát triển xanh tươi tốt. Tuy nhiên, trồng vào mùa xuân thì sẽ có hoa đẹp, phát triển nhanh hơn.
Cái đẹp của Mạn Châu Sa Hoa là vẻ đẹp chẳng lành của yêu dị, tai nạn, tử vong và chia lìa. Nhưng dù sao Bỉ Ngạn hoa cũng được nhiều người ưa thích vì màu sắc đẹp đẽ và chói mắt của nó. Bỉ ngạn hoa mãi mãi là huyền thoại khiến ta nhớ đến những ảo vọng trong tình yêu và sức mạnh tìm kiếm cái vĩnh hằng của con người.
Bỉ Ngạn hoa khai khai bỉ ngạn,
Vong Xuyên hà bạn diệc vong xuyên.
Nại Hà kiều đầu không nại hà,
Tam Sinh thạch thượng tả tam sinh.
Nếu bạn là tín đồ của ngôn tình thì ai cũng biết về hoa Bỉ Ngạn vì hầu như các truyện đều nhắc đến nó như một biểu tượng của tình yêu trác việt. Nhưng chắc có ai đã hiểu biết rõ ràng, đầy đủ về loài hoa kiêu sa, xinh đẹp này. Không những có một vẻ đẹp yêu mị, sắc đỏ như máu huyết, bỉ ngạn hoa còn gắn với một truyền thuyết vô cùng kì bí. Nhắc đến hoa bỉ ngạn khiến ai cũng nghĩ đến một mối tình tuyệt đích nhưng cũng tuyệt vọng.
Hoa Bỉ ngạn được biết đến đầu tiên ở Trung Quốc. Người Trung Quốc vốn đã xem nó là một loài hoa quý, có sức quyến rũ kì lạ, vừa đáng yêu lại vừa đáng sợ. Hoa bỉ ngạn cũng được tìm thấy ở Nhật Bản và một số nơi khác ở châu Á.
Loài cây này được trông thấy ở Hoa kỳ lần đầu tiên năm 1854. Đó là khi Hoa Kỳ mở cửa thương mại cho Nhật Bản. Thuyền trưởng William Roberts trong một lần trở lại Hoa kỳ đã mang theo loài Lycoris radiata này từ Nhật. Ông mang theo 3 cây, và những cây này được trồng và chăm sóc bởi cô cháu gái. Sau một thời gian chăm sóc và cô thấy rằng loài cây này không nở hoa cho đến khi sau một cơn mưa đầu mùa của mùa thu. Kể từ đó, theo bước chân của các thuyền buôn, hoa bỉ ngạn nổi tiếng trên toàn thế giới.
Cây hoa bỉ ngạn có tên khoa học là Lycoris Radiata. Cây có nguồn gốc từ Trung Quốc và phát triển ở một số nước như Nhật Bản, Hoa Kỳ và có du nhập về Việt Nam trong thời gian gần đây.
Ngoài cái tên chính Bỉ Ngạn hoa, loài hoa này còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như: Mạn Châu Sa Hoa, Hồng hoa Thạch Toán, Thạch Toán, Long Trảo hoa, Vô Nghĩa thảo, San Ô Độc, U Linh hoa, hoa Địa Ngục, Tử Nhân hoa, Vong Xuyên hoa.
Hoa bỉ ngạn có 3 màu sắc chính là đỏ, vàng, trắng. Trong đó, màu đỏ là màu chủ đạo. Hoa màu trắng gọi là Mạn Đà La Hoa (mandarava), hoa màu đỏ gọi là Mạn Châu Sa Hoa (Manjusaka). Sắc hoa đỏ như máu huyết, trông nhìn hết sức ấn tượng.
Bỉ Ngạn là giống cây thân thảo, có chiều cao trung bình 40-100 cm thường mọc hoang trên những triền đồi, đôi bờ sông, ven đường đi, những bờ ruộng và rất nhiều trong nghĩa địa. “Củ” của loài hoa này rất độc vì chứa lycorine, một chất độc thuộc nhóm alcaloid, gây tổn hại đến hệ thần kinh. Truyền thuyết kể rằng có người đã tuyệt mệnh bằng cách ăn “củ” của loài hoa này trong lúc đói. Có lẽ vì thế, thời xa xưa, người Nhật cho rằng đó là loài hoa của điềm gở và chết chóc.
Người ta còn lấy ngày hoa bỉ ngạn nở để đoán định thời gian. Trong một năm có 2 ngày mặt trời chiếu thẳng góc xuống xích đạo, vào thời điểm đó độ dài của ngày và đêm bằng nhau, đó là ngày xuân phân và thu phân. Ba ngày trước và sau xuân phân gọi là Xuân Bỉ Ngạn, ba ngày trước và sau thu phân gọi là Thu Bỉ Ngạn. Hoa Bỉ Ngạn nở vào Thu Bỉ Ngạn, thời gian rất chính xác cho nên mới gọi là hoa Bỉ Ngạn.
Đây cũng là thời gian mà theo lời dạy của phật trong thời gian 7 ngày của mùa thu, người sống có thể đi vào thế giới của người chết để gặp gỡ ông bà tổ tiên.
Với người Nhật, đây cũng là dịp họ đi thăm viếng sửa sang mồ mả của những người đã khuất. Trong dân gian người ta cho rằng Bỉ Ngạn là cửa ngõ để đi vào thế giới của những người đã chết, cũng có người lại nói rằng, vào những ngày người trần gian gặp người âm giới, Bỉ Ngạn là nơi trú ngụ của những linh hồn.
Các cây Bỉ Ngạn thường được trồng ở những khu vực có hệ thống thoát nước tốt để các bông hoa không bị tổn hại và phát triển bình thường. Đặc biệt là khu vực trồng cũng không bị ảnh hưởng bởi gió quá nhiều vào những tháng mùa đông. Bỉ Ngạn không thích nhiệt. Nó thích một môi trường ấm áp. Khi nhiệt độ vào mùa hè quá cao, các cây Bỉ Ngạn sẽ chết
Để trồng được một khóm hoa bỉ ngạn cũng không hề khó. Cây hoa bỉ ngạn ưa bóng mát nên bạn cần ưu tiên lựa chọn những vùng đất dốc để có khả năng thoát nước tốt. Trồng cây vào thời gian tốt nhất thường là cuối đông đầu xuân. Bạn vẫn có thể trồng vào các mùa trong năm. Nếu trồng vào mùa hè thì cây vẫn phát triển xanh tươi tốt. Tuy nhiên, trồng vào mùa xuân thì sẽ có hoa đẹp, phát triển nhanh hơn.
Cái đẹp của Mạn Châu Sa Hoa là vẻ đẹp chẳng lành của yêu dị, tai nạn, tử vong và chia lìa. Nhưng dù sao Bỉ Ngạn hoa cũng được nhiều người ưa thích vì màu sắc đẹp đẽ và chói mắt của nó. Bỉ ngạn hoa mãi mãi là huyền thoại khiến ta nhớ đến những ảo vọng trong tình yêu và sức mạnh tìm kiếm cái vĩnh hằng của con người.