K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1 tháng 5

Bạn tk:

Những giọt mưa rơi nhẹ nhàng, kèm theo là những hơi gió nhè nhẹ vuốt ve qua những cành cây. Trước hiên nhà, một người phụ nữ già đang ngồi đợi, với đôi mắt sâu thẳm nhìn ra xa xăm. Đó là dì Bảy, người luôn ở bên nhà, chăm sóc mọi việc một cách thầm lặng và hiền lành.

Cuộc sống của dì Bảy không phải là một cuộc sống nhiều ồn ào hay những thành tựu rực rỡ, nhưng sự hi sinh và đóng góp của bà trong gia đình lại không thể phủ nhận. Trong bài tản văn "Người Ngồi Đợi Trước Hiên Nhà", tác giả Huỳnh Như Phương đã tường thuật về cuộc sống của dì Bảy một cách diệu kỳ và đầy cảm xúc.

Dì Bảy không chỉ là người phụ nữ của gia đình, mà còn là tâm hồn và trụ cột vững chắc của mọi người xung quanh. Mỗi ngày, bà tỏ ra quan tâm và chu đáo với mọi người, không màng đến việc mệt mỏi hay khó khăn của bản thân. Bà là người luôn sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc và an lành của những người thân yêu.

Dì Bảy không cần nhận được sự công nhận hay sự chú ý đặc biệt từ mọi người. Bà chỉ muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào cuộc sống, và biết rằng những điều nhỏ nhặt đó lại mang lại niềm vui và hạnh phúc lớn lao. Sự hi sinh thầm lặng của dì Bảy chính là nguồn động viên và cảm hứng cho mọi người xung quanh.

Trước hiên nhà, dì Bảy ngồi đợi, đợi chờ một điều gì đó mà chính bà cũng không thể đặt tên. Nhưng có lẽ, điều đó không quan trọng bằng sự hi sinh và tình yêu thương mà dì Bảy dành cho mọi người trong gia đình. Dì Bảy, một người phụ nữ bình dị nhưng ấm áp và đầy ý nghĩa, đã để lại trong lòng mỗi người một dấu ấn sâu sắc và không thể nào phai mờ.

#hoctot

1 tháng 5

TK:

Mỗi trận chiến đi qua, bên cạnh sự xót thương dành cho những người lính ra trận, những chiến sĩ mãi mãi nằm lại nơi chiến trường, người ta còn nhớ và cảm thương về nơi hậu phương, trong những năm tháng chiến tranh, cũng có biết bao là sự hi sinh thầm lặng của người phụ nữ. Một trong số đó phải kể đến nhân vật dì Bảy trong bài tản văn “Người ngồi đợi trước hiên nhà” của Huỳnh Như Phương.

Dì Bảy là một nhân vật đã để lại trong tôi nhiều sự thương mến và cảm phục. Dì lấy chồng khi mới 20 tuổi. Dượng Bảy lại phải đi tập kết và chiến đấu. Vậy là từ ngày cưới, cả hai vợ chồng dì chưa được ở cạnh nhau bao lâu. Họ gặp nhau chỉ qua những cánh thư. 20 năm sau, Dượng Bảy mới có thể nhờ người gửi chiếc nón bài thơ cho dì làm quà và để chứng tỏ tình cảm của mình, để an ủi những người đang chờ mong. Thế nhưng, trước khi chiến tranh kết thúc khoảng mươi ngày, dì Bảy đã chở thành người phụ nữ góa chồng. Vậy là suốt hơn 20 năm chờ đợi, biết bao thương nhớ, biết bao buồn tủi, biết bao là những nỗi lo lắng, bồn chồn, cuối cùng dượng Bảy đã không thể cho dì được một hạnh phúc trọn vẹn.

Mất chồng, dì Bảy vẫn cứ lầm lũi ngồi bên bậc thềm, nhìn ra xa như trông đợi điều gì. Dì Bảy đã phải hi sinh hạnh phúc cá nhân mình vì nghĩa lớn. Tôi biết, không chỉ có dì Bảy, mà còn có rất nhiều người phụ nữ trên dải đất hình chữ S này cũng chung cảnh ngộ như dì. Họ đều đã hi sinh thầm lặng, cao cả cho cuộc kháng chiến, để đất nước được thống nhất và phát triển. Chúng ta, những thế hệ hôm nay phải biết ơn và làm được điều gì để đền đáp được công ơn đó.

Dì Bảy đã cho tôi hiểu về đức hi sinh của con người. Tôi tin rằng thế hệ tôi và những thế hệ mai sau sẽ đều ghi nhớ công ơn của các thế hệ trước. Nhưng tôi cũng mong sẽ không còn ai phải chịu cảnh ngộ, phải hi sinh như dì Bảy.

câu tường thuật hay sao ý

hi vọng tui đúng :))

 

1 tháng 5

Cảm ơn bà nhaa

1 tháng 5

mạng nha bn :))

 

Hãy lập dàn ý phân tích 1 tác phẩm truyện:Ông Tư- Ê, ông Tư đến bay ơi!- Ông Tư đến kìa.Chúng tôi đang đá bóng, đánh bi hay đánh đáo hễ nghe đứa nào xướng lên: “Ê, ông Tư đến” thì đều bỏ cuộc chơi, chạy đi lượm đất đá, chà gai ném ra giữa đường rồi nấp vào một ngõ nhà nào đó nhìn ra. Ông Tư đi tới, thấy các “chướng ngại vật” ấy, ông chỉ mỉm cười. Mặc dù biết là chúng tôi vừa ném ra, ông vẫn không la ó...
Đọc tiếp

Hãy lập dàn ý phân tích 1 tác phẩm truyện:

Ông Tư

- Ê, ông Tư đến bay ơi!
- Ông Tư đến kìa.
Chúng tôi đang đá bóng, đánh bi hay đánh đáo hễ nghe đứa nào xướng lên: “Ê, ông Tư đến” thì đều bỏ cuộc chơi, chạy đi lượm đất đá, chà gai ném ra giữa đường rồi nấp vào một ngõ nhà nào đó nhìn ra. Ông Tư đi tới, thấy các “chướng ngại vật” ấy, ông chỉ mỉm cười. Mặc dù biết là chúng tôi vừa ném ra, ông vẫn không la ó chửi mắng. 

 

Ông chỉ cúi xuống nhặt từng hòn đá, hòn đất, từng cây gai xếp cẩn thận vào bờ rào rồi đi tiếp, dáng ung dung. Cái trò ấy không biết đã lặp đi lặp lại bao nhiêu lần. Mỗi khi nhớ lại tuổi thơ, tôi không khỏi buồn rầu, xen lẫn một chút tự tha thứ cho mình.

Ông Tư sống một mình, không vợ, không con. Chẳng biết ông ăn uống bằng thứ gì, chỉ thấy ông suốt ngày lang thang khắp làng, tới các nhà neo khó, lúc họ đi làm vắng, tự động nhổ cỏ quét nhà, tự động mở cửa dọn dẹp, xếp đặt mọi thứ cho ngay ngắn gọn ghẽ rồi lặng lẽ ra về. Lúc đầu, nhiều người thấy vậy thì thắc mắc:

- Ông Tư khùng hay sao ấy. Tự nhiên chẳng ai mời lại đi làm giúp người ta mà chẳng đòi trả công.

- Chẳng khùng đâu, chẳng khùng đâu, - người khác cãi lại, - ông ta ăn nói khôn ngoan lắm.

- Thế thì ông ta làm phước đấy. - Người khác xen vào.

Nhưng sau đó, người ta chẳng còn thắc mắc nữa. Ông ta không ăn cắp, ăn trộm, không phá cây, phá quả, chỉ có dọn nhà nhổ cỏ rồi đi thì mặc ông ta, mình đỡ phải làm, hơi đâu suy nghĩ lý do lý trấu gì cho thêm mệt. Mọi người đều bận lo việc riêng của mình cả.Một hôm, chúng tôi không thấy ông Tư lang thang trên đường làng nữa. Những nhà vốn để rác bừa bãi, mọi vật vứt bỏ lộn xộn chẳng có bàn tay nào dọn dẹp. Chúng tôi thắc mắc hỏi người lớn: “Ông Tư đâu hè?”. Người lớn bận làm việc nên cứ “hử”, “hả” rồi bảo: “Chắc ổng bận việc gì ở nhà hoặc ổng thấy mất công, ổng không làm nữa thì kệ ông ấy, việc gì đến chúng bay”. Nhưng rồi, cả ba, bốn hôm sau vẫn không thấy ông Tư xuất hiện. Lần này, chúng tôi không hỏi người lớn nữa mà rủ nhau tìm đến nhà ông. Đó là một ngôi nhà tranh thủng nát, tường làm bằng đất, nhiều chỗ đổ xuống từng mảng. Cửa nhà là một tấm phên che tạm. Chúng tôi gọi to nhưng chẳng nghe tiếng ông đáp. Cảm thấy rợn rợn nhưng không tránh khỏi sự tò mò, mấy đứa tôi cầm tay nhau, xô tấm phên bước vào nhà ông.Trong nhà tối om. Có tiếng rắc rắc của mối mọt, có tiếng chuột chạy. Chúng tôi cố giữ can đảm bước sâu vào phía trong. Tại góc nhà phía trái có một cái giường tre, trên đó có một người nằm phủ chiếu. “Chắc ông Tư bị đau”. Chúng tôi chạy đến giở chiếu lên. Nhưng chúng tôi bất giác cùng lùi lại. Có một mùi như mùi xác chết rất nặng xông lên...Chúng tôi ré lên rồi ù chạy về báo cho người lớn. Nhưng mọi người như không cần nghe chúng tôi, chỉ gằn giọng “hử”, “hả” rồi bỏ đi.Mọi người đều bận lo việc riêng của mình.(Thanh Quế)

Help mik v

0
1 tháng 5

TK:

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ

“Ai bảo chăn trâu là khổ?”

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Những ngày trốn học

Đuổi bướm cầu ao

Mẹ bắt được

Chưa đánh roi nào đã khóc

Có cô bé nhà bên

Nhìn tôi cười khúc khích…

Mở đầu bài thơ, bức tranh thiên nhiên mang bóng hình quê hương hiện ra thật nhẹ nhàng mà đầy sâu sắc. Quê hương là những điều gần gũi, thân quen nhất. Tác giả yêu quê hương “qua từng trang sách nhỏ”, đó là nơi nuôi dưỡng tâm hồn và vun đắp cho những ước mơ. Trong mắt tác giả, quê hương luôn là điều hạnh phúc nhất. “Ai bảo chăn trâu là khổ” có lẽ là câu hỏi đặt ra cho người và cũng là cho chính mình. Chăn trâu, cắt cỏ chính là những điều gần gũi, thân thuộc nhất với quê hương. 

Thế rồi, những hình ảnh trữ tình cứ thế xuất hiện. Cậu bé chăn trâu ấy “mơ màng nghe chim hót trên cao”, quê hương lúc ấy sao lại bình yên đến vậy. Không chỉ là không gian gần gũi, thân thuộc, quê hương trong lòng Giang Nam còn là những ngày trốn học “đuổi bướm cầu ao”. Dường như đây là kỷ niệm mà bất cứ đứa trẻ con vùng quê nào cũng từng trải qua. Bằng một câu thơ, Giang Nam đã làm ký ức ùa về trong bao người. Ấy rồi những trận đòn của mẹ trong ký ức của tác giả lại trở nên thân thương đến lạ.

Hình ảnh cô bé nhà bên “nhìn tôi cười khúc khích” càng làm cho sự gần gũi của quê hương trở nên thân thuộc. Tuổi thơ ai chẳng có một cô bé nhà bên chuyên để chọc ghẹo, cùng làm những điều nghịch ngợm của tuổi thơ. Cô bé nhà bên ấy có lẽ là nhân vật trữ tình gắn bó thân thuộc với tác giả từ trong ký ức tuổi thơ đến khi trưởng thành.