K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

31 tháng 10 2019

 Ở Quận Cao Bình có 2 vợ chồng già ao ước có con . Ngọc Hoàng sai thái tử xuống đầu thai . Khi Thạch Sanh lớn, bố mẹ đã chết , Thạch Sanh được thần dạy võ nghệ .

- Lí Thông kết nghĩa, gạ Thạch Sanh về ở cùng .

- Lí Thông lừa Thạch Sanh chết thay . Thạch Sanh giết chằn tinh, lấy được cung tên vàng, bị Lí Thông cướp công .

- Thạch Sanh giết đại bàng, giải cứu công chúa và con vua Thủy Tề

- Thạch Sanh bị hồn chằn tinh và đại bàng trả thù, bị nhốt vào ngục . Nhờ cây đàn, Thạch Sanh được minh oan và chữa cho công chúa khỏi câm . Mẹ con Lí Thông bị trừng phạt

- Thái tử 18 nước sang gây chiến . Thạch Sanh đem đàn ra gẩy. Thạch Sanh cho họ nghe đàn, ăn cơm . Chúng xin hàng .

- Thạch Sanh lấy công chúa, được nối ngôi vua .

31 tháng 10 2019

phương án d nha bn

31 tháng 10 2019

TL :

Phương án : A

Hok tốt

31 tháng 10 2019

Truyền thuyết Hồ Gươm kể lại chuyện Lê Lợi được Long Quân cho mượn gươm thần để đánh giặc, đất nước được giải phóng, lên làm vua, Lê Lợi đã trả lại gươm thần cho Long Quân.
Ngoài việc giải thích tên Hồ Hoàn Kiếm, nhân dân ta còn ca ngợi, khẳng định một địa danh, một thắng cảnh của Thăng Long ngàn xưa là vô cùng thiêng liêng rất đáng tự hào, ai cũng có nghĩa vụ bảo tồn, làm cho Hồ Gươm ngày một thêm đẹp.
Hai chữ "Thuận Thiên" khắc trên lưỡi gươm báu nghĩa là thuận theo ý trời. Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đánh giặc Minh để cứu dân, cứu nước. Hành động ấy rất cao cả, chính nghĩa, trên thì hợp ý trời, dưới thì hợp lòng người, được lòng dân.
Đức Long Quân không cho Lê Lợi mượn thanh gươm thần ngay từ lúc đầu. Trước hết chỉ cho mượn lưỡi gươm. Sau một thời gian mới cho mượn chuôi gươm nạm ngọc. Phải chăng Long Quân muôn thử chí khí và tài trí Bình Định Vương như "Bình Ngô đại cáo" đã viết:
"Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan
Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào "
(Nguyễn Trãi)
Câu nói của Lê Thận khi dâng gươm báu cho Lê Lợi, vị lãnh tụ lỗi lạc của nghĩa quân đã nói lên sức mạnh đoàn kết chiến đấu của toàn dân, của tướng sĩ. Ý trời và lòng dân là một, làm nên sức mạnh nhân nghĩa vô địch của Đại Việt, vì thế Lê Lợi mới đánh đâu thắng đó:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo".
Lam Sơn là nơi Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần. Hồ Tả Vọng là nơi Lê Lợi trả lại gươm báu cho Long Quân. Lam Sơn, Hồ Tả Vọng là linh địa. Có vay có trả là tình nghĩa, ân nghĩa thủy chung. Tâm hồn Việt Nam rất đẹp 

31 tháng 10 2019

Truyền thuyết Hồ Gươm kể lại chuyện Lê Lợi được Long Quân cho mượn gươm thần để đánh giặc, đất nước được giải phóng, lên làm vua, Lê Lợi đã trả lại gươm thần cho Long Quân.
Ngoài việc giải thích tên Hồ Hoàn Kiếm, nhân dân ta còn ca ngợi, khẳng định một địa danh, một thắng cảnh của Thăng Long ngàn xưa là vô cùng thiêng liêng rất đáng tự hào, ai cũng có nghĩa vụ bảo tồn, làm cho Hồ Gươm ngày một thêm đẹp.
Hai chữ "Thuận Thiên" khắc trên lưỡi gươm báu nghĩa là thuận theo ý trời. Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đánh giặc Minh để cứu dân, cứu nước. Hành động ấy rất cao cả, chính nghĩa, trên thì hợp ý trời, dưới thì hợp lòng người, được lòng dân.
Đức Long Quân không cho Lê Lợi mượn thanh gươm thần ngay từ lúc đầu. Trước hết chỉ cho mượn lưỡi gươm. Sau một thời gian mới cho mượn chuôi gươm nạm ngọc. Phải chăng Long Quân muôn thử chí khí và tài trí Bình Định Vương như "Bình Ngô đại cáo" đã viết:
"Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan
Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào "
(Nguyễn Trãi)
Câu nói của Lê Thận khi dâng gươm báu cho Lê Lợi, vị lãnh tụ lỗi lạc của nghĩa quân đã nói lên sức mạnh đoàn kết chiến đấu của toàn dân, của tướng sĩ. Ý trời và lòng dân là một, làm nên sức mạnh nhân nghĩa vô địch của Đại Việt, vì thế Lê Lợi mới đánh đâu thắng đó:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo".
Lam Sơn là nơi Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần. Hồ Tả Vọng là nơi Lê Lợi trả lại gươm báu cho Long Quân. Lam Sơn, Hồ Tả Vọng là linh địa. Có vay có trả là tình nghĩa, ân nghĩa thủy chung. Tâm hồn Việt Nam rất đẹp 

Tham khảo nha bn ^^

31 tháng 10 2019

Lam Sơn là nơi Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần. Hồ Tả Vọng là nơi Lê Lợi trả lại gươm báu cho Long Quân. Lam Sơn, Hồ Tả Vọng là linh địa. Có vay có trả là tình nghĩa, ân nghĩa thủy chung. Tâm hồn Việt Nam rất đẹp .smiley

31 tháng 10 2019

Vì muốn cộc sống thanh bình cho đất nước

31 tháng 10 2019

Sau khi học xong văn bản " Sơn tinh, Thủy tinh" em rất thích chi tiết Sơn tinh đánh thắng Thủy tinh. Nhân dân đã khắc họa đúng sự thật lẽ phải luôn luôn thắng. Sau bao nhiêu vất vả và gian lao thì cái thiện cũng chiến thắng cái ác, đem lại hòa bình. Đồng thời đây cũng là đoạn quan trong nhất của văn bản. Phản ánh công cuộc chống thiên tai của nhân dân Bắc Bộ. Là một quá trình gian khó, đầy quyết tâm, kiên trì và lòng dũng cảm. Nhân đó, cũng tạo nên cái kết đẹp cho Sơn tinh và Mị nương được bên nhau mãi mãi. Thể hiện tình yêu của hai người, không có kẻ thứ ba xem vào.

31 tháng 10 2019

“Nhiều người cho rằng, Thủy Tinh là sự hình tượng hóa và thần thánh hóa nước lũ, còn Sơn Tinh là sự hình tượng hóa và thần thánh hóa tinh thần, ý chí, khả năng và thành quả chống bão lụt của nhân dân.Không hoàn toàn như vậy, Sơn Tinh và Thủy Tinh là những hình tượng huyền thoại, được hình thành, nhào nặn trong trí tưởng tượng của người Việt cổ, trong đó những yếu tố tự nhiên và xã hội, hiện thực và lí tưởng đã kết hợp, hòa lẫn với nhau, rất khó tách bạch. Sơn Tinh là sự khái quát hóa, hình tượng hóa và thần thánh hóa không chỉ riêng lực lượng con người (tinh thần, ý chí, thành quả chống lũ lụt của nhân dân) mà còn có cả lực lượng tự nhiên (rừng, núi). Sự xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh không chỉ phản ánh mâu thuẫn giữa con người và hiện tượng bão lụt trong thiên nhiên mà còn phản ánh cả sự xung đột giữa con người với con người, giữa các bộ tộc miền biển và miền núi trong thời kì Văn Lang của các vua Hùng.Cơn giận lưu niên “năm năm báo oán, đời đời đánh ghen” của Thủy Tinh là sự phản ánh và lí giải vô cùng độc đáo, tài tình hiện tượng bão lụt hàng năm (mang tính chu kì) của thiên nhiên và hiện tượng ghen tuông dai dẳng của con người.Chi tiết Thủy Tinh dâng nước cao lên bao nhiều Sơn Tịnh cũng dâng núi Tản Viền cao lên bấy nhiều thật nên thơ và độc đáo. Đó là ước mơ nhưng đồng thời cũng có nhiều tính hiện thực. Bởi vi trừ nạn hồng thủy ra, không có trận lụt nào có thể dâng nước lên cao hơn núi Ba Vì. Nếu không như vậy thì làm sao người Việt có thể tồn tại được đến ngày nay?”

31 tháng 10 2019

Trl :

Rìu đá , môi ăn cơm lưỡi cày , ..

Mk nghĩ zz nha ^^ có bn nào bt nữa thì bổ sung 

phát minh mới của người nguyên thủy là rìu đá

25 tháng 9 2021

Kì nghỉ hè năm vừa rồi là kì nghỉ vô cùng ý nghĩa đối với em. Vì em được bố mẹ dẫn về thăm ông bà ngoại.

Hôm đó, sau khi dự lễ tổng kết ở trường về, thì em nghe thấy bố mẹ đang bàn với nhau việc gì đó ở trong phòng khách. Thấy em về, mẹ liền gọi em vào và bảo:

- Hè năm nay, bố mẹ quyết định là cả nhà mình sẽ về quê thăm ông bà ngoại trong hai tuần.

Nghe mẹ nói vậy, em vô cùng vui sướng, lập tức nhảy lên và trả lời:

- Thật hả mẹ? Tuyệt vời quá đi!

Nhìn em vui sướng như vậy, bố mẹ cười theo. Sau đó, em có một ngày để cùng bố mẹ sửa soạn các thứ. Bố mẹ tất bật mua các loại hoa quả, trà bánh để làm quà cho họ hàng ở quê. Còn em thì được phân công sắp xếp quần áo và đồ dùng cá nhân vào vali. Tất bật suốt một ngày thì đến lúc chiều tối, mọi thứ đã xong xuôi. Suốt tối hôm đó, em cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Nằm trên giường mà em cứ nghĩ đến chuyến về quê ngày mai, là sung sướng vô cùng. Mãi đến gần sáng, em mới chìm vào giấc ngủ. Sáng hôm sau, mới 6 giờ sáng, cả nhà đã lên xe để đi về nhà bà. Trên đường đi, em ngủ say sưa. Một lúc sau, nghe tiếng mẹ gọi dậy, bảo là đã đến cổng làng. Em liền bật dậy ngay, áp sát mặt mình vào cửa xe để nhìn ra ngoài. Vừa nhìn vừa trầm trồ, đây đúng là quê ngoại yêu dấu của mình rồi.

Trước mắt em, là một làng quê yên bình trong ánh nắng vàng ươm của mùa hè. Xe đi qua con đường trải nhựa bằng phẳng, êm ái. Hai bên là cánh đồng lúa chín vàng, trải rộng mênh mông. Thỉnh thoảng, có vài cô chú đi xem lúa, đang đạp xe trở về nhà đi ngang qua xe. Khi xe tiến vào làng, em thích thú ngắm nhìn những ngôi nhà, con đường tuy nhỏ nhưng sạch sẽ. Những khu vườn xanh tốt cây cối, và những ao hồ nhỏ dập dềnh bèo trôi. Tất cả thật tươi đẹp, thân thương đến lạ kì.

Vào đến sân nhà bà, em vừa mở cửa xe, đã nhìn thấy ông bà đứng chờ sẵn ở đó. Thế là em liền chạy nhanh về phía trước, ôm chầm lấy ông bà. Cảm nhận từng cái vuốt ve hiền từ của bà mà em thấy sung sướng, cảm động vô cùng. Vì đã hai năm rồi em mới được về quê ngoại, em thấy nhớ ông bà nhiều lắm. Lúc này, bố mẹ cũng đã xuống xe, mọi người nói chuyện rôm rả, dẫn nhau vào nhà. Vào trong nhà, em ngồi xuống chiếc ghế gỗ mát lạnh, uống cốc nước mơ ướp đá được bà pha sẵn mà thấy thư thái vô cùng.

Suốt những ngày ở quê với ông bà, em cảm thấy mình như đang được ở thiên đường. Ở đây không có máy tính, các trung tâm thương mại lớn, bể bơi, sân bóng… như ở thành phố. Nhưng lại có những trò chơi còn thú vị hấp dẫn hơn nhiều. Buổi sáng, em cùng bà ra chợ, xem cá, xem gà. Được ăn bao nhiêu món quà quê mới lạ, hấp dẫn. Buổi chiều, em theo ông ra vườn hái trái. Khu vườn của ông to lớn, bao nhiêu là trái ngọt làm em thích mê. Buổi tối, cả nhà lại ra ngồi trước sân, nghe ông bà kể chuyện thời xưa. Có lúc, em cùng các bạn nhỏ hàng xóm ra đồng xem lúa chín, hay ra sống chèo thuyền câu cá. Rồi lại đi đá bóng ở bãi đất trống giữa làng. Xong lại đi thả diều ở chân đê.

Suốt hai tuần ở nhà ông bà ngoại, lúc nào em cũng vui vẻ, tươi cười, và mong sao thời gian đừng trôi nữa. Thế nhưng, ngày trở lại thành phố cũng đến. Dù không muốn chút nào, em vẫn phải tạm biệt ông bà. Hôm đó, ông bà gói cho cả nhà rất nhiều đồ ăn ngon ở quê, nào gạo, gà, thịt, rau, hoa quả… Nhìn những món đồ ấy, em lại càng thấm thía tình cảm thân thiết, yêu thương của ông bà dành cho con cháu.

Trên đường về, em cứ nhớ mong về những ngày vừa qua. Em mong sao ông bà luôn khỏe mạnh và yêu đời như bây giờ. Để những lần sau, khi em về thăm quê sẽ lại được nhìn thấy hình bóng ông bà tươi cười hiền lành chờ đón ở trước sân.

Tên người : Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết.

VD :

- Đinh Tiên Hoàng

- Trần Hưng Đạo

- Trần Phú 

- Ngô Gia Tự

- Nguyễn Thị Minh Khai

- Tố Hữu

* Chú ý : Tên danh nhân, nhân vật lịch sử được cấu tạo bằng cách kết hợp bộ phận vốn là danh từ chung với bộ phận gọi tên cụ thể cũng được coi là tên riêng và viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người.

VD :

- Ông Gióng

- Bà Trưng

- Đồ Chiểu

Tên địa lí : Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết.

VD :

- Thái Bình

- Trà Vinh 

- Cần Thơ

* Chú ý : Tên địa lí được cấu tạo bởi danh từ chỉ hướng hoặc bằng cách viết kết hợp bộ phận vốn là danh từ chung, danh từ chỉ hướng với bộ phận tên gọi cụ thể cũng được coi là danh từ riêng chỉ tên địa lí và viết hoa theo quy tắc viết hoa tên địa lí.

VD :

- Bắc Bộ 

- Nam Bộ 

- Vàm Cỏ Đông

- Trường Sơn Tây

- Vũng Tàu

Tên người và địa lí nước ngoài : Viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên đó. Nếu bộ phận tạo thành tên cò nhiều âm tiết thì giữa các âm phải có dấu gạch nối 

VD :

- Hi-ma-lay-a

- Thô-mát Ê-đi-xơn

31 tháng 10 2019

Từ đơn: đẹp

Từ ghép tổng hợp: đẹp tươi, đẹp xinh

Từ ghép phân loại: đẹp lão, đẹp trai

30 tháng 10 2019

Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, Xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình có truyền thống văn hóa và cách mạng. Sau khi tốt nghiệp khoa Văn, Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội năm 1964, ông trở về miền Nam tham gia vào phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên ở thành phố Huế, xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo làm thơ.

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Lời thơ Nguyễn Khoa Điềm không hoa mỹ kiêu kỳ mà như lời tự sự, lời tâm tình nhẹ nhàng bình dị nhưng lại có giá trị lay thức, ám ảnh tâm tư bạn đọc lâu dài bởi những triết luận sâu sắc được chuyển hóa qua những hình tượng thơ độc đáo, những tứ thơ có tính phát hiện mới đầy ám ảnh. Mẹ và quả là một bài thơ giản dị nhưng gợi nhiều liên tưởng mang tính nhân văn.

Những mùa quả mẹ tôi hái được

Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng

Những mùa quả lặn rồi lại mọc

Như mặt trời, khi như mặt trăng

Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên

Còn những bí và bầu thì lớn xuống

Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn

Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi

Và chúng tôi một thứ quả trên đời

Bảy mươi tuổi, mẹ mong chờ được hái

Tôi hoảng sợ, ngày bàn tay mẹ mỏi

Mình vẫn còn một thứ quả non xanh

Nguyễn Khoa Điềm 

(Thơ Việt Nam 1945-1985 - Nhà xuất bản văn học Hà Nội -1985)

Bài thơ chia làm ba khổ, tất cả gồm 12 dòng thơ với âm lượng mỗi dòng không đều nhau (5 dòng 7 chữ, 7 dòng 8 chữ). Giai điệu của bài thơ không mượt mà, du dương bởi tác giả ít quan tâm đến việc phối thanh, gieo vần; chủ yếu nhà thơ muốn bày tỏ cảm xúc chân thành, những suy nghĩ nghiêm túc gởi vào trong những hình ảnh thơ bình dị làm chúng ta nhớ mãi.

Nhan đề bài thơ “Mẹ và quả” có vẻ rất đơn giản, nhưng nó không thoáng qua nhẹ nhàng mà đọng lại, gợi thức trong mỗi chúng ta nhiều suy ngẫm về người mẹ trải bao vất vả cưu mang, chăm chút để cho nhiều thứ quả trên đời, trong khi đó đạo sống của con người là “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mở đầu cho những dòng suy tư cảm xúc về mẹ bằng mấy lời tự sự, như lời tâm tình chia sẻ với chúng ta những kỷ niệm thân thương về mẹ, về mái ấm gia đình bao năm quây quần sinh hoạt bên nhau.

Những mùa quả mẹ tôi hái được

Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng

Những mùa quả lặn rồi lại mọc

Như mặt trời, khi như mặt trăng

Những công việc vun trồng ngày này sang ngày khác, mùa này sang mùa khác của mẹ diễn ra có vẻ đơn giản, nhưng hàm chứa nhiều mong mỏi lớn lao của mẹ. Mẹ trông cậy vào thành quả tốt đẹp, khi đã dày công vun trồng chăm bón với ý thức trách nhiệm cao chứ không bỏ mặc để chúng phát triển tùy tiện. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã gợi ra mảnh vườn xanh tươi, gợi ra bóng dáng cuả mẹ ẩn hiện dưới giàn bí, len lõi giữa những luống khoai, vồng ớt, hàng cà lam lũ, như Nguyễn Duy khi “ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, mà hình dung bóng dáng của mẹ tất bật xót xa:

Mẹ ta không có yếm đào

Nón mê thay nón quai thao đội đầu

Rối ren tay bí tay bầu 

Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa

Kết quả công lao khó nhọc của mẹ là “những mùa quả lặn rồi lại mọc” tiếp nối nhau, đem lại cuộc sống no đủ cho đàn con, cho gia đình. Những mùa quả “như mặt trời” rộ chín của cam vàng, ớt đỏ, bí ngô già; “khi như mặt trăng” trắng dịu màu hoa, xanh màu ngọc như quả cà, quả bầu, quả mướp. Lời thơ còn gợi ra một bầu khí quyển thanh khiết, yên bình của chốn hương đồng gió nội quê nhà, giúp cho mỗi chúng ta tạm xa rời thế giới đô thị ồn ào, vội vã, xô bồ; tìm về quê quán ta xưa để được đắm mình trong hoài niệm tuổi thơ hạnh phúc, lâng lâng với dòng sữa ngọt ngào nuôi ta phần xác và lời ru ấm áp của mẹ bồi dưỡng phần hồn trong sáng thanh cao.

Từ vườn cây của mẹ, Nguyễn Khoa Điềm bắt nhịp tự nhiên sang vườn người với những nhận xét so sánh hóm hỉnh mà thâm trầm.

Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên

Còn những bí và bầu thì lớn xuống

Chúng mang dáng những giọt mồ hôi mặn

Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi

Từ bàn tay chăm sóc chu đáo và tấm lòng yêu thương, quý mến của mẹ dành cho cây, cho con, nên tất cả đều phát triển tốt đẹp. Những đứa con cao lớn dần lên cả về thể chất lẫn đời sống tâm hồn; còn bí, bầu thì lớn xuống dài to ra. Tất cả đều là sự kết tinh bao nhọc nhằn lao khổ của mẹ. Tác giả đã có một liên tưởng thú vị mang theo tấm lòng biết ơn trân trọng dành cho mẹ khi hình dung bí, bầu “chúng mang dáng những giọt mồ hôi mặn/Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi”.

Ý thơ Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ đến bài ca dao nói về nỗi vất vả của mẹ, của người nông dân một nắng hai sương.

Mồ hôi mà rỏ xuống đồng

Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương

Mồ hôi mà đổ xuống vườn

Dâu xanh lá tốt vấn vương tơ lòng

Nguyễn Khoa Điềm từng vận dụng chiếc khăn trong ca dao một cách độc đáo trong bài thơ Đất Nước. Nó không vì thương nhớ ai mà “khăn rơi xuống đất”, “khăn vắt lên vai”, “khăn chùi nước mắt”. Ông cho rằng “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn tay trong nỗi nhớ thầm”. Lần nữa, trong “Mẹ và quả” ông hình dung những giọt mồ hôi nhọc nhằn của mẹ trong việc trồng cây, trồng người nó đã không rơi xuống đất, mà “rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi”. Nhà thơ đã thấu hiểu sâu sắc những giọt lòng đau đáu vì con, thương con của mẹ được liễm kết vào bên trong cõi lòng nhân hậu, hy sinh. Mẹ không than phiền cuộc sống khó khăn, nén tiếng thở dài vất vả, lau vội những giọt mồ hôi nhọc nhằn, chỉ với mong muốn cho các con được hưởng cuộc sống an nhiên hạnh phúc. Mẹ cao cả biết bao!

Từ chuyện bầu bí, mạch thơ chuyển hẳn sang chuyện người con. Dòng ý thức của nhà thơ, với tư cách là một đứa con, ông băn khoăn lo lắng khi “mẹ già như chuối chín cây” mà mình vẫn còn là thứ quả non xanh.

Và chúng tôi, một thứ quả trên đời

Bảy mươi tuổi mẹ mong chờ được hái

Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi

Mình vẫn còn một thứ quả non xanh

Trên đời này, ai trồng cây mà không mong thu hái mùa quả ngọt. Cây năm nào cũng có quả, mất mùa này còn hy vọng mùa sau. Còn những đứa con là thứ quả vô giá mà người mẹ chăm chút mòn mỏi qua bao năm tháng mới hy vọng đến độ chín - mới chín chắn - vững vàng, thành đạt. Trong góc nhìn quan tâm, bao dung của người mẹ, những đứa con dù tuổi đã lớn nhưng biết đâu vẫn nông nổi, dại khờ. Chỉ một lầm lạc, sai trái là có thể di hại một đời người; nên mẹ luôn dõi theo con từng bước. Chế Lan Viên cũng đã từng nghĩ về mẹ rằng:

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con

Công ơn của cha mẹ lớn lao vô ngần như vậy, nên người con hiếu thảo cần phải biết trách nhiệm trả nghĩa, báo hiếu cho đấng sinh thành hết lòng, chu đáo, như ca dao nhắc nhở:

Mẹ già ở túp lều tranh

Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con

Điều quan trong hơn là những đứa con cần hiểu niềm hạnh phúc lớn lao của cha mẹ là được chứng kiến sự thành đạt của các con. Trách nhiệm của những người con là phải tu dưỡng, học tập, rèn luyện để trở thành nhân cách có đạo đức, có văn hóa, có nghề nghiệp vững chắc, để mẹ yên lòng khi bàn tay đã mỏi. Đó là sự báo hiếu ý nghĩa nhất.

Nhà thơ đã sử dụng phép nói giảm, nói tránh như “ngày bàn tay mẹ mỏi” mà “mình vẫn còn một thứ quả non xanh” làm cho ý thơ nghe có vẻ nhẹ; nhưng thực ra nó có sức nặng lay thức tất cả chúng ta. Những đứa con trên cõi đời này hãy sống sao cho mẹ yên lòng thanh thản. Đừng tự biến mình thành thứ quả sâu, quả độc làm đau lòng mẹ; rồi khi cài lên ngực mình bông hồng trắng, mà hối hận thì đã quá muộn màng!

Vần thơ Mẹ và quả ngân lên như lời tỉ tê tâm sự giản dị, chân thành của Nguyễn Khoa Điềm với mỗi chúng ta về người mẹ yêu kính của thi sĩ. Nhưng dư âm của nó đã tạo ra những con sóng lan tỏa lâu dài trong trường tình cảm, trong ý thức của bạn đọc, từ đó mà mỗi người cần phải biết sống sao cho đúng nghĩa một con người ân tình hiếu thảo.

30 tháng 10 2019

Bạn thứ nhất trả lời câu hỏi của mình là bạn lấy trên mạng phải ko?