K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 12 2017

1.Cho biết cách đánh giặc sáng tạo của nhà Trần trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên ?

- Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc.
- Tấn công quyết liệt.
- Đánh phủ đầu quân xâm lược khi chúng chưa kịp hành động, phản công nhanh chóng và quyết liệt ngay khi bị kẻ thù tiến công.
- Sự kết hợp khéo léo giữa tiến công và phòng ngự tích cực.
- Vận dụng tài tình sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với công tác chính trị và hoạt động ngoại giao.

3.Nêu ý nghĩa của chiến thắng Bạch Đằng năm 1288

Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của quân Nguyên đối với Đại Việt. Trong ba lần tấn công xâm lược, với quyết tâm cao, quân địch đã huy động một lực lượng hùng mạnh, nhiều tướng giỏi hòng đè bẹp nhân dân Đại Việt nhưng cả ba lần đều thất bại.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 đã đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của Mông – nguyên, một kẻ thù mạnh và an tàn bạo nhất thế giới lúc bấy giờ để bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của Đại Việt.

21 tháng 12 2017

-Bắt giam 3 tên sứ gải giam vào ngục

-Nhiều chiến sĩ Đại Việt đã xăm hai chữ "sát thát"

-Triều đình thông báo rằng:"Tất cả các quận huyện trong nướcnếu có giặc ngoài đến, phải liều mạng mà đánh, nếu sức không ddinchj nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng"

-Trong hội nghị Diên Hồng khi được vua hỏi có nên đánh lại quân Nguyên hay không, thì các phụ lão đã "vạn người cùng nói như một miệng": "Đánh"

-Khi vua Trần lo lắng hỏi ý kiền của Trần Thủ Độ, Ông trả lời:"Đầu thần chư rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo"

-Nghe tin quân của Trần Quốc Tuấn không chặn được giặc, phải lui quân, vau Trần lo lắng, bỏ cả cơm, vội vã di chuyển thuyền đến gặp và hỏi Quốc Tuấn: thế gaiwcj mạnh, giết hại nhân dân tàn bạo, có nên hàng giặc không. Trần Quốc Tuấn trả lời: "Nếu bệ hạ muốn hàng giặc thì trước hết hãy chém đầu thần rồi hãy hàng'.

26 tháng 1 2018

1.Hơn 2 năm sau khi Nghệ Tông qua đời, tháng Giêng năm Đinh Sửu (1397) Hồ Quý Ly quyết định dời đô về An Tôn. Việc dời đô đã có nhiều quần thần phân tích và can ngăn, nhưng Hồ Quý Ly vẫn quyết định, vì theo ông, vào cuối thời Trần không còn là thời "trị" mà thực sự bước vào thời loạn". Cái "loạn" thể hiện ở sự bất lực của bộ máy nhà nước quý tộc nhà Trần, ở mâu thuẫn giữa Hồ Quý Ly và vương hầu quý tộc và ở nguy cơ xâm lược của kẻ thù kể cả phía Bắc và phía Nam. Vì vậy, Hồ Quý Ly phải dời đô đến nơi đất hiểm.

An Tôn là một vùng đất bằng phẳng rộng rãi thuộc trung du lắm sông nhiều núi vây bọc, địa thế hiểm nhưng tiện đường thủy bộ thông thương ra Bắc vào Nam. Về đường thủy từ An Tôn có thể theo dòng sông Mã đến Đồng Cổ để theo hệ thống sông đào thời Tiền Lê qua các huyện Thiệu Hoá, Đông Sơn, Quảng Xương, Nông Cống, Tĩnh Gia vào Nam; hoặc xuôi dòng sông Lạch Trường ra biển, sông Lèn ra Bắc.

Về đường bộ, có thể theo đường thượng đạo đi Kim Tân (Thạch Thành) - Rịa - Nho Quan để ra Bắc; theo đường Quan Hoá liên lạc với Mai Châu (Hoà Bình), Mộc Châu (Sơn La) ở phía Tây Bắc và Lào ở phía Tây. Về phía Nam theo đường núi qua Thường Xuân hoặc Như Xuân đến Quý Châu hoặc Nghĩa Đàn miền tây Nghệ An hoặc theo đường Nông Cống, Như Xuân đến Quỳnh Châu (tây Quỳnh Lưu) đến miền đồng bằng ven biển Nghệ An. Rõ ràng đây là vùng đất hiểm nhưng không phải là nơi hẻo lánh cùng đường như một số ý kiến đưa ra can ngăn.

Việc dời đô về An Tôn của Hồ Quý Ly là để phòng chống giặc xâm lăng từ phía bắc là chủ yếu. Mặt khác, ông muốn rời Thăng Long bởi đó là nơi gắn với vương hầu quý tộc nhà Trần gần hai thế kỷ. Tầng lớp vương hầu quý tộc này đang là đối thủ một mất một còn của ông. Do vậy, việc dời đô là ý muốn chủ quan của Hồ Quý Ly nhưng hoàn toàn không phiêu lưu, được Hồ Quý Ly tính toán cân nhắc cẩn thận/

2.Chữ “Ngu” trong quốc hiệu “Đại Ngu” của nhà Hồ có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình". “Đại Ngu” có thể hiểu là ước vọng về một sự bình yên rộng lớn trên khắp cõi giang sơn.

15 tháng 3 2018

Cách thành phố Nam Định 5 km về phía tây bắc, chùa Phổ Minh nằm giữa một vùng đồng lúa chiêm trũng 700 năm qua vẫn hiên ngang, sừng sững. Đây là một trong những dấu tích còn lại của một thời Hào khí Đông A – nhà Trần.

Tháp Phổ Minh là công trình kiến trúc lâu đời còn giữ được tương đối toàn vẹn. Theo tính toán của các nhà khoa học, tháp nặng tới 700 tấn. Vậy mà hơn 7 thế kỷ qua vẫn đứng vững vàng giữa một nền đất không vững chắc. Thế cũng đủ thấy sự tài hoa khéo léo của cha ông ngày trước.

Đi trên quốc lộ 10, từ thành phố Nam Định sang Thái Bình, từ xa du khách đã có thể nhận ra tháp chùa Phổ Minh ẩn hiện trong những đồi cây xanh ngát. Tháp nằm trong kuôn viên chùa Phổ Minh, theo tư liệu còn để lại, có từ thời Lý. Chùa nằm trong khu vực Hành Cung Thiên Trường sau này là nơi các Thái Thượng Hoàng nhà Trần thường lui về sau khi đã nhường ngôi. Năm 1262, thượng hoàng Trần Thái Tông cho tu bổ lại chùa với quy mô lớn hơn.

Năm 1308, Kim Phật Trần Nhân Tông băng hà ở am Ngọa Vân trên ngọn Tử Phong – Yên Tử (Đại Việt Sử Ký toàn thư, kỷ Anh Tông). Sau đó ít lâu, con ngài là vua Anh Tông đã đem 7 trong số 21 hạt xá lợi đặt trong cỗ kiệu bát cống bằng đá rồi xây tháp Phổ Minh lên trên. Tháp hình vuông, gồm 14 tầng, cao 19,5 m. Hai tầng dưới làm bằng đá mỗi chiều dài 5,2 m. Các tầng còn lại xây bằng gạch bắt mạch để trần. Mỗi đầu viên gạch có dòng chữ “Hưng – Long thập tam niên”(1305) và khắc họa con rồng nổi thời Trần. Sau đó, một thương nhân giàu có đã bỏ tiền trát vữa lên các mặt tháp.

Tháp nằm ngay trước cửa Tam Bảo. Dưới chân tháp còn có những dấu mốc bằng đá. Xưa kia sân chùa có đặt một chiếc vạc đồng rất lớn được xếp vào An Nam Tứ Đại Khí (gồm tháp Báo Thiên, tượng phật chùa Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh, chuông Quy Điền). Những dấu mốc bằng đá này chính là dấu còn sót của những chân đỡ của chiếc vạc. Đáng tiếc sau đó quân Minh xâm lược đã phá cả tứ đại khí của nước ta với âm mưu làm mất sử sách và những công trình văn hóa để đồng hóa dân ta.

Chùa Phổ Minh cũng từng là nơi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông tu hành khi mới xuất gia. Nói về Trần Nhân Tông, đây không chỉ là một vị vua hiền có công trong kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2 và 3 mà còn là vị tổ đã sáng lập ra một dòng thiền của riêng Việt Nam, đó là thiền phái Trúc Lâm. Phái Trúc Lâm truyền được 3 đời tổ. Trần Nhân Tông truyền cho ngài Pháp Loa, Pháp Loa truyền cho Huyền Quang. Sau đó, nhà Trần suy yếu và bị mất thiên hạ vào tay họ Hồ.

Hơn 20 năm bị giặc Minh đô hộ cộng với sau đó nhà Lê lên nắm chính quyền đưa Nho giáo lên vị trí độc tôn nên phái thiền Trúc Lâm không còn phát triển mạnh mẽ như trước. Từ đây, thày truyền cho trò chỉ còn lấy tâm ấn tâm, ngầm trao truyền y bát. Do vậy nên tuy không thấy nói đến các đời tổ về sau của phái Trúc Lâm mà tông môn cũng như cách thức tu tập của Trúc Lâm thì còn mãi đến tận bây giờ. Một dẫn chứng cụ thể là năm Lê Cảnh Hưng thứ 24 (1763), Ngài Huệ Nguyên đem khắc bản in cuốn Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, trong phần giới thiệu về các tông phái Thiền ở đất Việt, ngài Huệ Nguyên đã tự nhận: “Tông Trúc Lâm của tôi, khắc trong bản đồ, khỏi phiền ghi đủ”.

Trong chùa hiện có thờ Trúc Lâm Tam Tổ ở hậu điện. Chính giữa là tượng Trần Nhân Tông viên tịch theo kiểu nằm giống như hình Thích Ca Nhập Diệt ta thường thấy trong các chùa. Bên phải là tổ Pháp Loa, bên trái là tượng Huyền Quang. Bức tượng Trần Nhân Tông nhập diệt được đánh giá là tác phẩm có giá trị cao cả về mỹ thuật, sử học lẫn tư tưởng.

Tháp Phổ Minh là một trong số ít công trình còn giữ được tương đối toàn vẹn từ thời Trần. Bàn tay tài hoa cùng với niềm tự hào chiến thắng trong võ công hiển hách của những người thợ Đại Việt đã kết tinh lại để tạo nên một tháp Phổ Minh kiêu hùng. Giữa vùng đồng ruộng chiêm trũng mà 700 năm đã qua vẫn vững như bàn thạch.

21 tháng 12 2017

Mình ghi nhầm" nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh " mới đúng

21 tháng 12 2017

Giống nhau

Trước các cuộc chống quân xâm lược đều chuẩn bị chu đáo

Tất cả tàng lớp trong cả nước đoàn kết lạ tạo thành 1 khối đoàn kết vững bền.

Khác nhau

Cách đánh giặc của nhà Lý

- Chọn lối sách tấn công để tự vệ

Tấn công quyết liệt.
- Đánh phủ đầu quân xâm lược khi chúng chưa kịp hành động,phản công nhanh chóng và quyết liệt ngay khi bị kẻ thù tiến công.
- Sự kết hợp khéo léo giữa tiến công và phòng ngự tích cực.
Vận dụng tài tình sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với công tác chính trị và hoạt động ngoại giao.

Cách đánh giặc của nhà trần

- Đưa ra lối sách vườn không nhà trống, tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu

-Huy động tòan dân đánh giặc
- Khi thời cơ đến, phản công tiêu diệt địch lấy kế: "Lấy yếu đánh mạnh,lấy ít đánh nhiều"

tick nha. cảm ơn

21 tháng 12 2017
Chữ “Ngu” trong quốc hiệu “Đại Ngu” của nhà Hồ có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình". “Đại Ngu” có thể hiểu là ước vọng về một sự bình yên rộng lớn trên khắp cõi giang sơn.