K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

7 tháng 6 2016

* Nguyên nhân :

- Bảo vệ nền tự chủ đang được xây dựng

- Căm thù giặc

* Diễn biến :

-  Cuối năm 938,  quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy kéo vào vùng biển nước ta.

-  Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra đánh nhử quân giặc vào cửa sông Bạch Đằng. Nước triều đang lên, giặc đuổi theo, vượt qua bãi cọc ngầm.

-  Nước triều bắt đầu rút. Ngô Quyền cho quân đánh quật trở lại. Quân Nam Hán rút chạy ra biển. Nước triều rút nhanh, bãi cọc nhô lên, thuyền bị vỡ, Hoằng Tháo bị chết.

-  Vua Nam Hán hay tin bại trận, hoảng sợ rút quân về nước.

* Kết quả

Trận Bạch Đằng của Ngô Quyền kết thúc thắng lợi vĩ đại

* Ý nghĩa  lịch sử:

-  Là chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta.

-  Đập tan âm mưu xâm lược nước ta của bọn phong kiến phương Bắc.

-  Mở ra thời kì mới, xây dựng, bảo vệ nền độc lập của tổ quốc./.

-  Chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, mở ra thời kì độc lập lâu dài cho đất nước.

7 tháng 6 2016

*Nguyên nhân thắng lợi :

+ Do tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ta khi hưởng ứng cuộc kháng chiến do Ngô Quyền lãnh đạo, đóng góp sức lực của mình để xây dựng được trận địa cọc lớn trên sông Bạch Đằng.

+ Do sự chỉ huy tài giỏi của Ngô Quyền và của tướng lĩnh, đã biết phát huy sức mạnh của dân tộc, biết sử dụng và phát huy các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", biết phát huy sở trường "thuỷ chiến" của dân tộc ta để giành thắng lợi.

*Diễn biến của trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng :
- Năm 938, quân Nam Hán kéo vào bờ biển nước ta, lúc này nước triều đang dâng, quân ta khiêu chiến, giả vờ thua rút chạy, giặc đuổi theo vượt qua bãi cọc ngầm.
- Khi nước triều rút, quân ta dốc toàn lực lượng đánh quật trở lại. Quân giặc rút chạy. Trận chiến diễn ra ác liệt (thuyền quân ta nhỏ gọn, dễ luồn lách ; thuyền địch to. cồng kềnh rất khó khăn chạy qua bãi cọc lúc này đã nhô lên do nước triều rút...).
*Kết Quả : Vua Nam Hán vội ra lệnh thu quân về nước. Trận Bạch Đằng kết thúc thắng lợi về phía quân ta.

*Ý nghĩa :

+ Đây là một chiến thắng lẫy lừng của dân tộc ta, đã đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Nam Hán.

+ Đã bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và mở ra thời đại độc lập đối với dân tộc ta.

3 tháng 6 2016

Việc nhân dân ta lập đền thờ Hai Bà Trưng và các vị tướng ờ khắp nơi:
- Thể hiện ý chí độc lập và tinh thần chiến đấu bất khuất của dân tộc...
- Thể hiện lòng biết ơn và đề cao tinh thần yêu nước, hi sinh bất khuất vì độc lập dân tộc của Hai Bà Trưng.

 

3 tháng 6 2016

Việc nhân dân ta lập đền thờ Hai Bà Trưng và các vị tướng ờ khắp nơi:

- Thể hiện ý chí độc lập và tinh thần chiến đấu bất khuất của dân tộc...

- Thể hiện lòng biết ơn và đề cao tinh thần yêu nước, hi sinh bất khuất vì độc lập dân tộc của Hai Bà Trưng.

2 tháng 6 2016

Hùng Vương Lạc hầu - Lạc tướng (Trung ương) Lạc tướng (Bộ) Lạc tướng (Bộ) Bồ chính (chiềng , chạ ) Bồ chính (chiềng , chạ) Bồ chính (chiềng , chạ)
Xong rùi đó bạn 

2 tháng 6 2016

- Biết huy động sức mạnh toàn dân, mưu cao, mẹo giỏi...
- Biết lấy yếu thắng mạnh, đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù khiến chúng sợ mà không dám sang nữa.
-Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi hoàng đế, nhưng nước Việt đã thoát được ách thống trị ngàn năm của bọn phong kiến phương Bắc, trở lại là một nước độc lập.

 

2 tháng 6 2016

Công lao của Ngô Quyền:

- Biết huy động sức mạnh toàn dân, mưu cao, mẹo giỏi...
- Biết lấy yếu thắng mạnh, đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù khiến chúng sợ mà không dám sang nữa.
-Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi hoàng đế, nhưng nước Việt đã thoát được ách thống trị ngàn năm của bọn phong kiến phương Bắc, trở lại là một nước độc lập.

2 tháng 6 2016

bạn ghi câu hỏi 1 đường, chủ đề 1 nẻo  ucche

2 tháng 6 2016

đồng ý luôn

1 tháng 6 2016
Nhảy dây là trò chơi dân gian có từ lâu đời, được các bạn gái ở độ tuổi thiếu niên nhi đồng yêu thích. Tranh thủ lúc rỗi rãi ở nhà hoặc giờ ra chơi ở trường, dăm ba bạn, một sợi dây thừng hoặc dây thun và khoảng đất đủ rộng là trò chơi có thể bắt đầu. Có nhiều cách nhảy dây nhưng thông thường là nhảy dây một người và nhảy dây nhiều người. Cách nhảy thứ nhất khá đơn giản. Người chơi quấn hai đầu dây vào hai bàn tay để giữ cho chắc. Đặt chân vào giữa sợi dây rồi kéo lên cao cho vừa tầm. Dây dài quá hoặc ngắn quá đều khó nhảy. 

Lúc bắt đầu nhảy, hai tay quay dây đều đều về phía trước, chân nhấc lên nhịp nhàng mỗi khi dây chạm đất, vừa nhảy vừa đếm. Nếu để dây vướng vào chân là mắc lỗi, phải ngừng. Người nhảy giỏi có thể nhảy được rất lâu.

 

 

Nhảy dây nhiều người thì hai người quay dây đứng cách nhau vài mét, mỗi người nắm một đầu dây, quay cho các bạn khác nhảy. Sau tiếng hô: “Hai, ba, nào!” thì từng người lần lượt nhảy vào. Có khi hai người cùng nhảy vào một lúc. Cái khổ của kiểu này là mọi người phải phối hợp bước nhảy thật đều, thật ăn ý, không thì rất dễ bị lỗi nhịp. Nếu để dây vướng chân thì những người nhảy sỗ ra quay dây thay thế.

gioi thieu tro choi nhay day

Trò chơi nhảy dây rất có ích cho việc rèn luyện sự nhanh nhẹn và sức khỏe dẻo dai. Nó mang lại niềm vùi cùng quan hệ hoà đồng, thân thiết cho tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Cũng vì thế mà nó sẽ tồn tại mãi mãi trong cuộc sống của chúng ta.

 
1 tháng 6 2016

Chẳng biết có từ khi nào nữa mà những trò chơi dân gian cứ dần dần rồi dần dần trở thành những trò chơi không thể thiếu đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn ở thành thị nữa. Những trò chơi dân gian chẳng phải  chỉ dành cho trẻ em mà nó dành cho tất cả mọi lứa tuổi. Nói đến những trò chơi dân gian ta không thể không nhắc đến một trò choi gắn liền đối với chúng ta đó là trờ chơi thả diều.

Diều được làm từ rất nhiều chất liệu khác nhau như bằng giấy, vải hay bằng ni lon. Nhưng được ưa chuộng nhất là ni lon bởi là bằng vật liệu này diều không những có thể làm được những màu sắc hình dạng rất đẹp mà còn rất biền sử dụng được thời gian lâu. Tùy vào màu sắc và hình dạng ta có thể chọn rất nhiều loại diều với những hình dạng phong phú, người chơi có thể chọn được tùy theo ý thích của mình. Đó là đối với những loại diều dùng để sản xuất bán cho người chơi không thể chuẩn bị được hay không làm được. Ưu điểm của những loại diều này chính là mẫu mã rất đẹp lại phong phú đa dạng rất hợp mắt người choi. Nhưng đối với những trẻ em ở quê thi lựa chọn số một vẫn là diều làm bằng giấy. Đối với loại diều này thì chất liêu làm ra rất đơn giản hợp với môi trường và sẵn có. Các em có thể tận dụng tất cả những giấy vở đã không dùng nữa để làm. Đối với những em nhỏ ở quê thì diều giấy không thể thiếu được khi mỗi mùa hè đến. Những cánh diều giấy nhẹ nhàng vút cao lên đến tận mây xanh khiến cho chúng ta như đang được bay lên cao cùng diều cùng với gió mấy thật thú vị biết nhường nào.

thuyet minh ve tro choi tha dieu

Thả diều là trò chơi dân gian dựa theo sức nâng của gió bởi thế để thực hiện được trò này trước tiên chúng ta cần phải chọn được địa điểm thích hợp.

 

Đó là một bãi đất rộng thoáng không vướng cây côi hay vật chắn nào đó xa lối đi và phải có gió nhẹ. Và chúng ta cũng đừng quên những người bạn để cùng nhau thả diều thì mới vui. Những cánh diều thi nhau bay lên không trùn sẽ tạo cho chúng ta những cảm giác thăng hoa rất sảng khoái. Khi có gió thả diều thì một người cầm diều một người thả dây hoặc chúng ta có thể làm cả hai việc đó được mà không cần ai khác. Khi thả diều ta chọn đúng hướng gió, khi có gió ta   ta thả diều thật nhẹ cho thật cân.

Cánh diều thường có hình trăng hoặc hình lưỡi liềm hay còn gọi là diều quạ. Khung diều thì thường được làm bằng cật tre bánh tẻ chuốt tròn và nối với nhau. Giu khung diều là một xương sống bằng tre cứng to bản to nhô ra bên Hai bên cánh diều cong lên tạo thành khung diều hình lưỡi liềm.

Chiều cong của cánh diều phải thật cân đối, khung diều phải chắc chắn và nhẹ. Diều được phất bằng giấy bản, bồi thành nhiều lớp bằng hồ dán. Sáo được xâu lại bằng một thanh tre đặt chéo góc ước chừng ba mươi độ với xương sống diều. Sáo thường làm bằng ống nứa, chia làm hai khoang, đầu gắn nắp hình vòm xẻ rãnh để gió lùa vào tạo nên âm thanh. Diều sáo trông đơn giản nhưng phải khéo tay mới làm được. Ngày trước chưa có loại dây dù, ni lon nên dây neo thường là dây mây, sợi nhỏ được đập dập, xoắn lại rồi thắt nối thành sợi dây dài chừng dăm bảy trăm mét. Chẳng may dây neo mà đứt, cánh diều theo gió cuốn xa, thật xa, mang theo cả niềm tiếc nuối của người thả diều.  Ngày nay, trước sự phát triển của nhịp sống hiện đại, các nhà máy, các dự án khu công nghiệp, dịch vụ thi nhau mọc lên. Những không gian thoáng đãng, lộng gió ở các vùng nông thôn đang dần bị thu hẹp, thú chơi thả diều cũng vì thế mà bị mai một. Bên cạnh đó, sự lấn át của các phương tiện giải trí hiện đại như: trò chơi điện tử, internet đã khiến cho không ít trẻ em không còn mặn mà với những cánh diều truyền thống. Song cánh diều ngày xưa của tuổi thơ hồn nhiên đầy ước vọng ngày thơ sẽ mãi vẹn nguyên trong tâm thức chẳng thể phai mờ.

Trò chơi thả diều sẽ mãi là một trò chơi là thú vui của nhiều người trong những ngày hè oi ả. Những ngày gió to ta đem diều ra thả chúng ta sẽ có những phút giây thật thú vị bình yên cùng cánh chim va một mảng xanh biêng biếc của bầu trời.

28 tháng 5 2016

 Columbus là người đã tìm ra châu Mỹ vào năm 1491

29 tháng 5 2016

Nguoi dau tien tin ra chau my la Cri-xto-pho-ro Co-lom-bo vao nam 1451

 

27 tháng 5 2016

I – Những nét truyền thống tiêu biểu

Ngày 19/10/1946 theo quyết định của Trung ương; Chiến khu 10 được thành lập gồm các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên và huyện Mai Đà ( Hoà Bình). Ngày 08/9/1995 Bộ Quốc phòng đã ra quyết định số 794/QĐ-QP công nhận ngày 19/10/1946 là ngày truyền thống của Lực lượng vũ trang Quân khu 2.

Nằm ở phía Tây bắc của Tổ quốc, Quân khu 2 là một địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng- an ninh; Địa bàn Quân khu 2 ngày nay gồm 09 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Bao gồm 75 huyện, 04 thị xã, 09 thành phố; 1.504 xã, phường, thị trấn; có diện tích rộng 64.598.17 km2, có gần 7 triệu dân với 34 dân tộc anh em cùng chung sống, có đường biên giới giáp Trung Quốc và Lào dài 1.402 km.

Sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng, sự chăm lo giúp đỡ của tổ chức Đảng và Chính quyền địa phương, sự thương yêu đùm bọc của nhân dân các dân tộc Tây Bắc. LLVT Quân khu đã khắc phục mọi khó khăn gian khổ vượt qua nhiều thử thách hy sinh, mưu trí sáng tạo lập nên nhiều chiến công to lớn; LLVT Quân khu ngày càng trưởng thành vững mạnh, đã viết nên truyền thống “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng”; góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của QĐND Việt Nam anh hùng và truyền thống oanh liệt của nhân dân các dân tộc Tây Bắc.

70 năm qua, trên chặng đường xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, trải qua các thời kỳ cách mạng, nhiều khó khăn, gian khổ, ác liệt, song dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, trong chiến đấu, làm nhiệm vụ quốc tế cũng như xây dựng phát triển kinh tế. LLVT Quân khu luôn thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Chủ động, tự lực, tự cường, mưu trí sáng tạo, đoàn kết gắn bó, chiến đấu ngoan cường, tham gia nhiều chiến dịch trên các chiến trường, có nhiều trận đánh tiêu biểu từ Nam chí Bắc; từ chiến dịch Thu – Đông năm 1947 với chiến thắng Sông Lô, tới các chiến dịch Sông Đà (tháng 1/1948), Nghĩa Lộ (tháng 3/1948), Yên Bình (tháng 10/1948), Sông Thao (tháng 6/1949), Lê Hồng Phong 1 và Lê Hồng Phong 2 (năm 1950), Trần Hưng Đạo (năm 1951), Lý Thường Kiệt (tháng 10/1951), chiến dịch giải phóng Tây Bắc (năm 1952), tới chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch giải phóng Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, LLVT Quân khu đã cùng với nhân dân và đơn vị bạn chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt địch, bảo vệ vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, LLVT Quân khu thường xuyên nâng cao sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện vững chắc, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong LLVT Quân khu; chủ động phòng chống có hiệu quả chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững sự ổn định chính trị trên địa bàn, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Có được những chiến công và thành tích đó trước hết có sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, sự lãnh đạo thường xuyên trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Quân uỷ Trung ương BQP.

Những chiến công đó, có đóng góp rất to lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Bắc, đã hết lòng cưu mang đùm bọc, yêu thương, giúp đỡ cán bộ chiến sỹ LLVT Quân khu, tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, góp phần chiến thắng mọi kẻ thù, xây dựng quê hương Tây Bắc giàu đẹp.

Những chiến công đó là sự kết tinh ý chí quyết chiến, quyết thắng, tự lực, anh dũng của LLVT ba thứ quân trong Quân khu; đã không ngừng rèn luyện phấn đấu xây dựng bản lĩnh chính trị, trình độ huấn luyện, SSCĐ và chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Truyền thống vẻ vang của LLVT Quân khu là những di sản tinh thần quý báu được xây dựng bằng công sức, xương máu của những anh hùng, liệt sỹ và các thế hệ cán bộ chiến sỹ trong LLVT Quân khu và sự đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Những truyền thống, chiến công đó đã và đang trở thành nguồn sức mạnh tinh thần cổ vũ động viên mọi cán bộ chiến sỹ trong LLVT Quân khu vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội giao cho trong giai đoạn cách mạng mới.

4 tháng 7 2016

I – Những nét truyền thống tiêu biểu

Ngày 19/10/1946 theo quyết định của Trung ương; Chiến khu 10 được thành lập gồm các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên và huyện Mai Đà ( Hoà Bình). Ngày 08/9/1995 Bộ Quốc phòng đã ra quyết định số 794/QĐ-QP công nhận ngày 19/10/1946 là ngày truyền thống của Lực lượng vũ trang Quân khu 2.

Nằm ở phía Tây bắc của Tổ quốc, Quân khu 2 là một địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng- an ninh; Địa bàn Quân khu 2 ngày nay gồm 09 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Bao gồm 75 huyện, 04 thị xã, 09 thành phố; 1.504 xã, phường, thị trấn; có diện tích rộng 64.598.17 km2, có gần 7 triệu dân với 34 dân tộc anh em cùng chung sống, có đường biên giới giáp Trung Quốc và Lào dài 1.402 km.

Sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng, sự chăm lo giúp đỡ của tổ chức Đảng và Chính quyền địa phương, sự thương yêu đùm bọc của nhân dân các dân tộc Tây Bắc. LLVT Quân khu đã khắc phục mọi khó khăn gian khổ vượt qua nhiều thử thách hy sinh, mưu trí sáng tạo lập nên nhiều chiến công to lớn; LLVT Quân khu ngày càng trưởng thành vững mạnh, đã viết nên truyền thống “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng”; góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của QĐND Việt Nam anh hùng và truyền thống oanh liệt của nhân dân các dân tộc Tây Bắc.

70 năm qua, trên chặng đường xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, trải qua các thời kỳ cách mạng, nhiều khó khăn, gian khổ, ác liệt, song dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, trong chiến đấu, làm nhiệm vụ quốc tế cũng như xây dựng phát triển kinh tế. LLVT Quân khu luôn thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Chủ động, tự lực, tự cường, mưu trí sáng tạo, đoàn kết gắn bó, chiến đấu ngoan cường, tham gia nhiều chiến dịch trên các chiến trường, có nhiều trận đánh tiêu biểu từ Nam chí Bắc; từ chiến dịch Thu – Đông năm 1947 với chiến thắng Sông Lô, tới các chiến dịch Sông Đà (tháng 1/1948), Nghĩa Lộ (tháng 3/1948), Yên Bình (tháng 10/1948), Sông Thao (tháng 6/1949), Lê Hồng Phong 1 và Lê Hồng Phong 2 (năm 1950), Trần Hưng Đạo (năm 1951), Lý Thường Kiệt (tháng 10/1951), chiến dịch giải phóng Tây Bắc (năm 1952), tới chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch giải phóng Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, LLVT Quân khu đã cùng với nhân dân và đơn vị bạn chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt địch, bảo vệ vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, LLVT Quân khu thường xuyên nâng cao sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện vững chắc, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong LLVT Quân khu; chủ động phòng chống có hiệu quả chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững sự ổn định chính trị trên địa bàn, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Có được những chiến công và thành tích đó trước hết có sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, sự lãnh đạo thường xuyên trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Quân uỷ Trung ương BQP.

Những chiến công đó, có đóng góp rất to lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Bắc, đã hết lòng cưu mang đùm bọc, yêu thương, giúp đỡ cán bộ chiến sỹ LLVT Quân khu, tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, góp phần chiến thắng mọi kẻ thù, xây dựng quê hương Tây Bắc giàu đẹp.

Những chiến công đó là sự kết tinh ý chí quyết chiến, quyết thắng, tự lực, anh dũng của LLVT ba thứ quân trong Quân khu; đã không ngừng rèn luyện phấn đấu xây dựng bản lĩnh chính trị, trình độ huấn luyện, SSCĐ và chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Truyền thống vẻ vang của LLVT Quân khu là những di sản tinh thần quý báu được xây dựng bằng công sức, xương máu của những anh hùng, liệt sỹ và các thế hệ cán bộ chiến sỹ trong LLVT Quân khu và sự đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Những truyền thống, chiến công đó đã và đang trở thành nguồn sức mạnh tinh thần cổ vũ động viên mọi cán bộ chiến sỹ trong LLVT Quân khu vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội giao cho trong giai đoạn cách mạng mới.

27 tháng 5 2016

-  Năm 917, Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mĩ lên thay.

-  Mùa thu năm 930, quân Nam Hán sang đánh nước ta. Khúc Thứa Mĩ bị bắt, nhà Nam Hán cử Lý Tiến làm Thứ sử Châu Giao, đặt cơ quan đô hộ ở Tống Bình.

-  Năm 931, Dương Đình Nghệ đem quân từ Thanh Hóa ra Bắc bao vây, đánh chiếm thành Tống Bình.

-  Quân Nam Hán xin viện binh nhưng Dương Đình Nghệ đã chủ động đón đánh quân tiếp viện, tướng giặc bị giết tại trận.

-  Dương Đình Nghệ xưng là Tiết độ sứ tiếp tục xây dựng nền tự chủ.

27 tháng 5 2016

Năm 917, Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mĩ lên thay. Tiếp tục sự nghiệp của cha, Khúc Thừa Mĩ đã cử sứ sang thần phục nhà Hậu Lương và được vua Lương phong cho chức Tiết độ sứ.
Mùa thu năm 930, quân Nam Hán đánh sang nước ta.


-Khúc Thừa Mĩ chống cự không nổi, bị bắt đem về Quảng Châu.
-Nhà Nam Hán nhân đó cử Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu, đặt cơ quan đô hộ ở Tống Bình (Hà Nội).
-Năm 931, một tướng cũ của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ được tin, đã đem quân từ Thanh Hoá ra Bắc bao vây, tấn công thành Tống Bình.
-Quân Nam Hán lo sợ vội cho người về nước cầu cứu. Viện binh của địch chưa đến nơi thì Dương Đình Nghệ đã chiếm được Tống Bình và chủ động đón đánh quân tiếp viện. Quân tiếp viện của giặc vừa đến đã bị đánh tan tác. Tướng chỉ huy của chúng bị giết tại trận.
-Sau khi đánh tan quân Nam Hán, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, tiếp tục xây dựng nền tự chủ.



 

27 tháng 5 2016

-  Cuối thế kỉ IX nhà Đường suy yếu.

-  Giữa năm 905Tiết độ sứ An Nam là Độc Cô Tổn bị giáng chức.

-  Khúc thừa Dụ, được sự ủng hộ của nhân dân, đánh  chiếm Tống Binh rồi tự xưng là Tiết độ sứ, xây dựng chính quyền tự chủ.

-  Đầu năm 906 vua Đường buộc phải phong Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ

-  Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay: đặt lại các khu vực hành chính, cử người trông coi mọi việc đến tận xã, định lại mức thuế, bi bỏ các thứ lao dịch, lập lại sổ hộ khẩu…

27 tháng 5 2016

Từ cuối thế kỉ IX, ở Trung Quốc, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra (đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào). Nhà Đường suy yếu. Lợi dụng thời cơ đó, Khúc Thừa Dụ đã tập hợp nhân dân nổi dậy.
Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (Ninh Giang - Hải Dương), thuộc một dòng họ lớn lâu đời. Ông sống khoan hoà, hay thương người, được dân chúng mến phục.
Giữa năm 905, Tiết độ sứ An Nam là Độc Cô Tổn bị giáng chức. Khúc Thừa Dụ, được sự ủng hộ của nhân dân, đã đánh chiếm Tống Bình rồi tự xưnglà Tiết độ sứ, xây dựng một chính quyền tự chủ.
Đầu năm 906, vua Đường buộc phải phong Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ An Nam đô hộ.
Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ được hai năm thì mất (907), con trai là Khúc Hạo lên thay. Khúc Hạo quyết định xây dựng đất nước tự chủ theo đường lối “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui”. Ông đã làm được nhiều việc lớn : đặt lại các khu vực hành chính, cử người trông coi mọi việc đến tận xã ; xem xét và định lại mức thuế, bãi bỏ các thứ lao dịch
của thời Bắc thuộc ; lập lại sổ hộ khẩu...