K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

12 tháng 6 2021

Thamkhao

+ Nghệ thuật điệp (điệp từ vì ai, điệp cấu trúc câu Vì ai chân mẹ dẫm gai -Vì ai áo mẹ phai màu).

+ Liệt kê và ẩn dụ: những nhọc nhằn vất vả của mẹ chân dẫm gai, áo phai màu, bạc đầu...
- Tác dụng của các biện pháp tu từ:

+ Tăng sức biểu cảm cho sự diễn đạt.

+ Khắc sâu những nỗi vất vả của mẹ.

+ Thể hiện nỗi xót xa, day dứt của nhà thơ khi hồi tưởng về mẹ.

có thể chọn một trong hai biện pháp tu từ :điệp ngữ (vì ai...)hoặc câu hỏi tu từ (dòng thơ cuối ). Khi nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ cần làm rõ được giá trị biểu đạt nội dung :tình yêu thương của mẹ và lòng biết ơn của con...

5 tháng 8 2022

Thamkhao

- Mẹ chịu những mệt nhọc , những lần dãi dầm sương nắng cũng chỉ mong có thể cho con cái một cuộc sống ấm no , đầy đủ như bao người khác.

- Phép điệp " vì ai " như muốn nhấn mạnh những công lao to lớn , sự hi sinh cao cả của người mẹ dành cho những đứa con của mình.

=> Đồng thời, đoạn thơ như muốn khuyên chúng ta hãy ghi nhớ công lao và hiếu thảo với mẹ.

- nỗi vất vả , cơ cực của cuộc đời mẹ và tình yêu thư vô hạn của mẹ dành cho con .

-tình cảm kính yêu và lòng biết ơn của con đối với mẹ .

12 tháng 6 2021

Ý nghĩa: 2 BPTT đã làm cho người đọc thấy tình cảm vĩ đại, lớn lao của bà dành cho cháu, tình cảm ấy được ví như ''ngọn lửa'' ấm mãi trong tâm trí của cháu, một ngọn lửa mang trọn vẹn tình yêu và niềm tin của bà

12 tháng 6 2021

Thamkhao

+ Ẩn dụ: ngọn lửa tượng trưng cho ánh sáng, hơi ấm và sự sống. Đó là ngọn lửa của tình yêu thương luôn ủ sẵn trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, thắp sáng lên ý chí, hi vọng và nghị lực.

    + Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp của bà dành cho cháu.

11 tháng 6 2021

Tham khảo nha em:

 Vũ Nương là 1 người vợ thủy chung,người con hiếu thảo. Trước hết, nàng là người vợ hiền thục, nết na,khéo léo, yêu thương và thủy chung với chồng.Điều đáng trân trọng hơn trong những năm tháng Trương Sinh xa nhà. Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ, người con, người mẹ (là người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo).Không những vậy, nàng còn là người phụ nữ trọng danh dự và nhân phẩm, trọng tình nghĩa nhân hậu và vị tha. Đối với chúng ta, Vũ Nương đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia đình. Nàng mang nét đẹp tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Vũ Nương có vẻ đẹp hoàn thiện như vậy xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc một cách trọn vẹn nhưng lại phải chết oan uổng. Câu chuyện của nàng đã thể hiện sâu sắc số phận bi kịch ngời phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nàng là tiêu biểu cho nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền bất công, của lễ giáo phong kiến hà khắc,nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Nỗi đau khổ, bất hạnh của Vũ Nương mãi mãi còn ám ảnh các thế hệ bạn đọc. Tuy cuộc sống có nhiều điều đau buồn nhưng Vũ Nương vẫn là người tốt. 

Khởi ngữ: in đậm, nghiêng

11 tháng 6 2021

Câu trần thuật

Tác dụng: Cho thấy tâm trạng đau khổ, buồn bã của ông khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

11 tháng 6 2021

Phép thế: Bức tranh xuân -> Đó là

Phép liên tưởng: 

'' Đó là dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, là lộc giắt đầy quanh lưng người ra trận và trải dài trên những cánh đồng (tượng trưng cho sự nảy nở, sinh sôi, cho sự dồi dào, thành đạt). Đó là tiếng chim chiền chiện lảnh lót vang trời. ''

11 tháng 6 2021

Tham khảo nha em:

Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm viết về cuộc đời và số phận của người con gái tên Vũ Thị Thiết, đó là người con gái có vẻ đẹp toàn diện cả về dung mạo lẫn phẩm chất nhưng vì một hiểu lầm không đáng có của người chồng, nàng đã phải kết thúc cuộc đời mình trong nỗi oan ức đầy bi kịch. Đó là nỗi oan khiên sâu nặng mang tên thất tiết, mà trong xã hội phong kiến xưa , người phụ nữ thất tiết không thể tha thứ.

Vũ Thị Thiết là người con gái có dung mạo hơn người, hiền hậu nết na hết lòng vì chồng, vì con. Nàng là người vợ thủy chung son sắc, sống nặng tình nặng nghĩa vợ chồng. Ở vị thế của một người con dâu, nàng là một người con hiếu thảo hết lòng với mẹ chồng, nàng coi mẹ của Trương Sinh như chính mẹ ruột của mình để chăm sóc, hiếu dưỡng hết lòng.

Tuy nhà nghèo nhưng khi mẹ ốm nàng vẫn hết lòng chạy chữa thuốc thang, cầu khấn trời phật, nói những lời ngon ngọt để động viên người mẹ già yếu, lời nói của người mẹ trước khi chết đã thể hiện được tấm lòng người con của Vũ Thị Thiết “…xanh kia sẽ chẳng phụ con như con chẳng phụ mẹ”, đó là lời nhận xét nhưng cũng chính là lời cầu chúc cho tương lai tươi sáng của Vũ Nương và Trương Sinh. Tuy nhiên, cuộc sống lại không như mong muốn, khi Trương Sinh trở về, vì một lời nói ngây thơ của đứa con nhỏ mà chàng một mực khẳng định vợ thất tiết, không chung thủy để rồi gây ra nỗi oan khuất khôn nguôi cho Vũ Nương.

Ở địa vị của một người mẹ, Vũ Nương là một người mẹ thương con, vì không muốn con cảm thấy thua thiệt vì không nhận được sự chăm sóc của người cha mà Vũ Nương đã chỉ vào bóng mình và nói đó chính là cha của đứa bé. Vì còn nhỏ nên cậu bé ngây thơ đã không hiểu và nói với Trương Sinh rằng cha bé tối nào cũng đến. Lời nói vừa châm lên ngọn lửa ghen tuông mù quáng của Trương Sinh.

Nỗi oan của Vũ Nương là nỗi oan của người vợ thủy chung bị nghi ngờ hư hỏng, thất tiết. Đây là một tội lỗi nặng nề trong xã hội phong kiến xưa, không thể được chấp nhận, không thể tha thứ. Với một con người trong sạch, ngay thẳng như Vũ Nương, đó là một nỗi oan khủng khiếp. Quá bế tắc, nàng đã lựa chọn cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của bản thân.

Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật được Nguyễn Dữ thể hiện thông qua việc trực tiếp giới thiệu tính cách Vũ Nương, khắc họa Vũ Nương qua hành động, lời nói, tâm trạng.

11 tháng 6 2021

Tham khảo:

Trong thời kì được coi là mục nát nhất, suy sụp nhất của chế độ phong kiến Việt Nam, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, đã có rất các nhà văn, thi sĩ đại tài nhưng lại bất mãn với thời cuộc chiến tranh loạn lạc mà về ở ẩn – Nguyễn Dữ là một trong số những người như vậy.

 

Sinh trưởng trong gia đình có dòng dõi làm quan, ông sớm được trọng dụng ở thời Mạc rồi thời Lê. Nhưng ông đã cáo quan, lấy cớ nuôi mẹ, về ở ẩn nơi núi rừng Thanh Hóa. Tác phẩm thành công nhất mà cũng là duy nhất của ông là tập “Truyền kì mạn lục” (Sao chép tản mạn những chuyện lạ). “Chuyện người con gái Nam Xương” được trích từ kiệt tác này. Truyện kể về về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng, phải kết liễu cuộc đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Đó là số phận, hình ảnh của Vũ Nương - một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt.

Vũ Nương là con nhà nghèo, một phụ nữ bình dân. Người đã được giới thiệu trong truyện “tính tình đã thùy mị nết na lại thêm tư duy tốt đẹp. Còn chồng nàng, Trương Sinh, là một người đa nghi, con nhà giàu, ít học. Chính những tính nết này đã đẩy Vũ Nương vào bi kịch.

Nguyễn Dữ đã tập trung khắc họa vẻ đẹp đức hạnh của Vũ Nương trong các mối quan hệ với chồng, với mẹ chồng và với bé Đản – đứa con yêu quý của nàng. Để làm nổi bật nàng, nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào các hoàn cảnh, tình huống đặc biệt. Nàng là một người vợ thủy chung, hết mực yêu thương chồng. Khi mới lấy chồng, Vũ Nương cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép, nên cho dù Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức nhưng gia đình vẫn luôn êm ấm thuận hòa. Khi tiễn chồng đi lính, nàng không trông mong vinh hiển, chỉ cầu mong chồng được bình yên trở về: “Chàng đi chuyến này … mang theo hai chữ bình yên thế là đủ”. Nàng rất cảm thông với nỗi vất vả gian lao mà chồng nàng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc. Nàng đã nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình – những lời nói ân tình đằm thắm này của nàng khi tiễn chồng đã làm cho người đọc xúc động. Khi Trương Sinh đi chiến trận, xa chồng, Vũ Nương càng tỏ rõ là người vợ thủy chung, yêu chồng hết mực. Mỗi khi thấy bướm lượn đầu mùa – cảnh vui mùa xuân hay mây che hình núi – cảnh buồn mùa đông, nàng lại chạnh nỗi nhớ nhung da diết, thổn thức tâm tình. Tiết hạnh đấy của Vũ Nương cũng được khẳng định lại trong câu nói với chồng: “ … cách biệt 3 năm, giữ trọn một tiết, tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng…”. Nàng còn là một người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng. Trong lúc chồng đi vắng, nàng đã sinh con. Một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm lo săn sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm, nàng đã hết lòng chăm sóc, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên đơn. Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay, tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Lời trăn trối của mẹ chồng đã ghi nhận công lao của Vũ Nương với gia đình nhà chồng. Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một người mẹ rất mực yêu thương con. Khi chồng đi lính, nàng đã sinh con một mình, dành hết tình yêu thương cho bé Đản. Nàng đã yêu con bằng cả phần người cha cộng lại. Nàng còn chỉ bóng của mình trên tường để dỗ con vì thương con thiếu vắng tình cha. Nàng là một người phụ nữ trọng nhân phẩm và nghĩa tình. Khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói lên thân phận mình, nói đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang nguy cơ tan vỡ. Vũ Nương đã chọn cái chết để tự minh oan cho mình, để bảo vệ nhân phẩm của người phụ nữ. Tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhưng đó là giải pháp duy nhất của Vũ Nương. Lời than của nàng là một lời thề nguyện: “Xin thần sông chứng giám…”. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Đối với người phụ nữ bất hạnh ấy, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống. Vũ Nương còn là một người phụ nữ rất coi trọng tình nghĩa. Dù thương nhớ về quê hương song nàng quyết giữ lời hứa với Linh Phi.

Vũ Nương quả là một người phụ nữ lí tưởng: xinh đẹp, nết na, đảm đang, hiếu thuận, thủy chung,… Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Nàng phải chịu nỗi kỉ oan, bị chồng nghi oan là thất tiết, bị đối xử bất công, tàn nhẫn đến mức nàng phải tìm đến cái chết để giải tỏ tấm lòng mình. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nương là từ chiếc bóng trên vách và lời nói của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu xa trước hết là từ người chồng đa nghi và thô bạo. Trương Sinh được giới thiệu từ đầu là một người “có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức” và là con nhà hào phú nhưng không có học. Đó chính là mầm mống của bi kịch. Tiếp theo đó là sự xử sự hồ đồ, độc đoán, phũ phàng của Trương Sinh khi ghen tuông mù quáng. Trương Sinh đã phớt lờ tất cả các cơ hội để tránh được thảm kịch và mắng nhiếc, đuổi đánh Vũ Nương đi. Nguyên nhân tiếp theo là lễ giáo phong kiến hà khắc, không chấp nhận sự lầm lỡ của người phụ nữ, coi người phụ nữ không giữ được tiết hạnh là mắc vào điều ô nhục nhất. Tất cả những cái đó đã bức tử Vũ Nương, khiến nàng phải chết. Vũ Nương chính là một nạn nhân của xã hội phong kiến.

Cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung kết thúc có hậu hay không – phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện. Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống sung sướng, hạnh phúc dưới thủy cung, đặc biệt là chi tiết kết thúc tác phẩm: “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa, đứng ở giữa dòng, theo sau có tới 50 chiếc xe cờ, võng, lọng, rực rỡ dòng sông, lúc ẩn lúc hiện”. Sự hiện diện đẹp đẽ của Vũ Nương chứng tỏ nàng vô tội và ở thế giới ấy, nàng đã được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Chi tiết cuối truyện góp phần làm hoàn chỉnh thêm nhân cách của Vũ Nương: “ Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa…”. Nó góp phần tạo nên kết thúc phần nào có hậu thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, về cái đẹp, cái thiện, thể hiện lòng khát khao một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là phụ nữ. Tuy nhiên, nó không làm giảm đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương và chồng con vẫn chia lìa âm dương đôi ngả. Vũ Nương chỉ hiển linh trong thoáng chốc rồi “bóng người loang loáng, mờ nhạt dần và biến đi mất”.

 

Hạnh phúc đã vĩnh viễn biến mất. Sương khói giải oan tan đi chỉ còn lại sự thực cay đắng: nỗi oan người phụ nữ không đàng tràng nào giải được. Sự ân hận của người chồng cũng không hàn gắn được gia đình. Lời từ biệt của Vũ Nương như một lời tố cáo chốn nhân gian phong kiến ngày xưa đầy oan nghiệt, khổ đau, không chốn dung thân cho con người, đặc biệt là người phụ nữ.

11 tháng 6 2021

từ ''giật mình'' cho thấy sự bất ngờ, chợt nhận ra điều gì đó, ở đây tác giả muốn nói đến sự bất ngờ của người lính khi gặp lại trăng- một người bạn đã cũ

11 tháng 6 2021

tk : Những tín hiệu báo thu về được nhà thơ Hữu Thỉnh miêu tả thật sâu sắc qua khổ thơ đầu bài thơ" Sang Thu ".(1)"Bỗng nhận ra hương ổi": Đối với Hữu Thỉnh, mùa thu đến không phải là với sắc vàng của hoa cúc, sắc trời xanh biết hay là mùi hương cốm mới,.....mà là với mùi hương ổi nồng nàn ngọt ngào được làn gió thu đưa đến.(2)"Phả vào trong gió se": Động từ "phả" làm cho làn hương ổi không bị tan ra loãng đi mà như được sánh lại ở độ đậm nhất trong làn gió se - làn gió heo may mang hơi lạnh và khô.(3)Cùng với hương ổi phả vào trong làn gió se nhè nhẹ của mùa thu là làn sương chùng chình được giăng mắc trước ngõ: "Sương chùng chình qua ngõ".(4)Từ láy "chùng chình" diễn tả làn sương mỏng nhẹ chầm chậm chuyển động trong không gian.(5) Ẩn trong hình ảnh đó, nghệ thuật nhân hoá khiến cho làn sương như mang tâm trạng của con người: Nó cũng như cố ý chậm lại để cảm nhận vẻ đẹp của phút giao mùa.(6) Từ "ngõ" ở đây vừa có thể hiểu là ngõ tả thực và cũng có thể hiểu là ngõ cửa giao mùa giữa hạ và thu.(7) "Hình như thu đã về" : Tình thái từ "hình như" chỉ cái không chắc chắn kết hợp với phó từ "đã" chỉ cái đã xảy ra đã diển tả được tình yêu mùa thu của tác giả.(8) Cùng với đó, từ "Bỗng" ỡ câu thơ đầu cũng thể hiện tâm trạng bất ngờ, ngạc nhiên của người thi sĩ, nó kéo con người ta ra khỏi bộn bề của công việc để trở về với thiên nhiên.(9) Và dường như nhà thơ quá yêu mùa thu, quá khao khát, mong chờ mùa thu nên khi thu đến, nhà thơ cũng không giám tin là thu đã về.(10) Đây chính là một lời thông báo đầy ý nghị của tác giả: Thu đã về.(11) Bằng sự cảm nhận tinh tế, một hồn thơ nhẹ nhàng, khả năng kết hợp từ thật độc đáo, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh phút giao mùa lúc sang thu thật đẹp, qua đó thể hiện tình yêu mùa thu, tình yêu thiên nhiên của chính bản thân mình.(12)