Cơm không có vị ngọt nhưng khi chúng ta nhai kĩ thấy có vị ngọt là do tinh bột trong cơm đã biến thành chất gì?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Những đặc điểm giống nhau giữa tinh bột và glycogen là:
+ Đều là polysaccharide những hợp chất có cấu trúc đa phân
+ Các đơn phân glucose kết hợp với nhau bằng liên kết glycoside
+ Được hình thành do qua nhiều phản ứng ngưng tụ.
Những đặc điểm khác nhau giữa tinh bột và cellulose về cấu tạo mạch carbon:
+ Tinh bột: mạch phân nhánh bên
- Điểm giống nhau giữa tinh bột và glycogen:
+ Đều có cấu trúc đa phân mà đơn phân là glucose.
+ Mạch đều có sự phân nhánh (glycogen phân nhánh mạnh hơn).
+ Đều có chức năng dự trữ năng lượng.
- Điểm khác nhau giữa tinh bột và cellulose về cấu tạo mạch carbon là:
+ Tinh bột có 2 dạng cấu trúc xoắn hoặc phân nhánh. Nhìn chung, các loại tinh bột có cấu trúc ít phân nhánh.
+ Cellulose có dạng mạch thẳng, không phân nhánh, nhiều phân tử cellulose liên kết với nhau thành bó sợi dài nằm song song.
Có cấu trúc vững chắc là thành phần cấu tạo thành tế bào thực vật.
- Sự liên quan giữa cấu trúc đến chức năng dự trữ của tinh bột, glycogen và chức năng cấu trúc của cellulose:
+ Tinh bột là loại carbohydrate được dùng làm năng lượng dự trữ dài hạn ở thực vật vì tinh bột có cấu trúc ít phân nhánh, % tan trong nước không nhiều (khó sử dụng) phù hợp với thực vật có đời sống cố định, ít tiêu tốn năng lượng hơn động vật.
+ Glycogen là loại carbohydrate được dùng làm năng lượng dự trữ ngắn hạn ở động vật, một số loài nấm vì glycogen có cấu trúc phân nhánh nhiều, dễ phân hủy phù hợp với động vật thường xuyên di chuyển, hoạt động nhiều, đòi hỏi nhiều năng lượng hơn.
+ Cellulose được tạo nên từ những phân tử đường glucose liên kết với nhau dưới dạng mạch thẳng, không phân nhánh, tạo thành bó sợi dài nằm song song có cấu trúc vững chắc phù hợp để trở thành thành phần chính cấu tạo nên thành tế bào của thực vật cứng chắc.
Vai trò của ribose, deoxyribose và glucose trong tế bào:
- Ribose là một thành phần cấu tạo nên nucleotide - đơn phân cấu tạo nên RNA, thành phần cấu tạo nên ATP cung cấp năng lượng sinh học cho tế bào,…
- Deoxyribose là một thành phần cấu tạo nên nucleotide - đơn phân cấu tạo nên DNA;…
- Glucose là đơn phân cấu tạo nên disaccharide, polysaccharide; là nguyên liệu chủ yếu trong hô hấp tế bào để cung cấp năng lượng cho tế bào;…
a) Các loại carbohydrate được phân loại dựa trên tiêu chí là số đơn phân cấu tạo nên hợp chất đó.
b) Các loại carbohydrate, số lượng gốc đường (đơn phân) và cho ví dụ về mỗi loại carbohydrate:
Loại carbohydrate | Số lượng gốc đường | Ví dụ |
Monosaccharide | 1 | Glucose, fructose, ribose, galactose,… |
Disaccharide | 2 | Sucrose (có nhiều trong quả, mía, củ cải đường), lactose (có trong sữa),… |
Polysaccharide | Nhiều hơn 2 | Tinh bột, glycogen, cellulose,… |
- Trong tháp dinh dưỡng của người ở hình 6.1, nhóm thực phẩm chứa tinh bột chiếm tỉ lệ cao nhất.
- Giải thích: Nhóm thực phẩm chứa tinh bột chiếm tỉ lệ cao nhất trong tháp dinh dưỡng vì tinh bột đóng vai trò dự trữ, cung cấp năng lượng chủ yếu trong tế bào.
Nhóm thực vật có chứa chất bột đường chiếm tỉ lệ cao nhất.Vì nhóm chất bột đường này là nguồn cung cấp nhiên liệu chính cho hệ thống thần kinh trung ương và cung cấp năng lượng cho các cơ quan trong cơ thể làm việc.
Đơn phân cấu tạo nên:
Polysaccharide: Đường đơn (glucose, galactose, fructose)
Polypeptit: Các loại amino acid (alanine, glycine, phenylalanine, tyrosine,...)
DNA: Đường deoxyribose, 4 loại nucleotide (adenine, thymine, guanine, cytosin)
RNA: Đường ribose, 4 loại nucleotide (adenine, uracil, guanine, cytosin)
Các loại thực phẩm ở bốn tầng trong tháp dinh dưỡng cung cấp cho chúng ta những loại hợp chất sau:
- Tầng 1: Cung cấp tinh bột (carbohydrate) có trong cơm, ngô, khoai tây, bánh mì, ngũ cốc, các loại hạt, nui.
- Tầng 2: Cung cấp vitamin và chất khoáng có trong các loại rau, quả.
- Tầng 3: Cung cấp chất đạm (protein) có trong thịt, bơ, trứng, sữa, cá.
- Tầng 4: Cung cấp chất béo (lipid).
Các biện pháp cấp cứu khi cơ thể bị mất nước khi sốt cao, tiêu chảy:
- Trong trường hợp trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ mất nước do tiêu chảy, có biểu hiện nôn hoặc sốt có thể sử dụng dung dịch oresol (nếu có) hoặc nước cháo muối. Đó là những dung dịch bù nước và điện giải rất tốt.
- Đối với người trưởng thành trong trường hợp mất nước nhẹ do tiêu chảy, nôn hoặc sốt chỉ cần uống nhiều nước để bù lại lượng nước mất đi. Lưu ý tuyệt đối không sử dụng nước trái cây hay nước ngọt vì có thể khiến tình trạng bệnh tệ hơn.
- Trong trường hợp mất nước nghiêm trọng kể cả đối với trẻ em hay người lớn đều là tình trạng cấp cứu và cần đưa ngay đến cơ sở y tế gần nhất để có hướng xử trí kịp thời. Lúc này, bù nước và điện giải theo cách thông thường sẽ không hiệu quả bằng truyền trực tiếp qua đường tĩnh mạch. Nước, muối và các chất điện giải truyền qua đường tĩnh mạch sẽ được hấp thu nhanh hơn do đó tăng tốc độ hồi phục của cơ thể.
Bù nước cho người trưởng thành trong trường hợp mất nước nhẹ Trường hợp lao động hoặc chơi thể thao trong điều kiện thời tiết nắng nóng có thể bù nước bằng nước mát hoặc đồ uống chứa chất điện giải. Đối với trường hợp mất nước nhẹ do tiêu chảy, nôn hoặc sốt chỉ cần uống nhiều nước để bù lại lượng nước mất đi.
Từ tinh bột sang đường mantozo enzyme amylase có trong nước bọt.