K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

28 tháng 1 2016

* Chứng minh ĐBSH là vùng hiện nay có mật độ dân số cao nhất cả nước thể hiện như sau:
- Nếu như 93 mật độ dân số trung bình ở ĐBSH là 1104 người/km2. Với tổng số dân số 13,5 triệu thì ® 99 dân số ĐBSH đã
lên tới 14,8 triệu với mật độ trung bình là 1180 người/km2. Như vậy hiện nay ĐBSH có gấp 10 lần so với TDMNPB và gấp 3 lần so
với ĐBSCL, gấp 17,6 lần so với Tây Nguyên. Qua đó ta (+) mật độ trung bình ở ĐBSH hiện nay là cao nhất cả nước.
ở các vùng đô thị ở ĐBSH hiện nay cũng có mật độ dân số rất cao điển hình là Hà Nội có mật độ trung bình (cả nội và ngoại
thành năm 99 là 2883 ng/km2, nếu tính riêng trong nội thành mật độ trung bình của Hà Nội lên tới 24000 ® 25000 người/km2.
Cùng với Hà Nội, nhiều thành phố trong vùng cũng rất đông, điển hình: mật độ ở Hải Phòng 1113 người/km2, ở Nam Định
khoảng gần 20 vạn dân, TháI Bình 6,4 vạn dân, ít nhất Ninh Bình cũng gần 4 vạn dân. Chứng tỏ dân cư đô thị ở ĐBSH rất đông, rất
cao.

- ở các vùng nông thôn thuộc ĐBSH cũng có dân số rất đông với mật độ rất cao điển hình ở nông thôn Thái Bình nếu năm
93 mật độ trung bình là 1172 người/km2 thì năm 99 là 1183 người/km2. Vùng nông thôn có mật độ dân số cao nhất ở ĐBSH là các
tỉnh Hải Dương, Hưng Yên năm 89 chỉ đạt 956 người/km2 thì năm 99 đạt 1204 người/km2.. Qua đó ta khẳng định mật độ dân số
ĐBSH rất cao ở cả nông thôn và thành thị.

* Nguyên nhân dẫn đến vùng này có mật độ cao:
- ĐBSH có mật độ dân số cao trước hết là do vùng này có lịch sử định cư và khai thác lâu đời cho nên hàng nghìn năm qua
đã có nhiều thế hệ nối tiếp nhau cư trú ở vùng này.

- ĐBSH có các điều kiện tự nhiên như: khí hậu, đất đai, nguồn nước rất thuận lợi đối với đời sống con người và ĐB có địa
hình rất bằng phẳng nên vùng này đã tiếp nhận nhiều luồng di cư từ mọi miền đất nước đến đây cư trú lập nghiệp.

- ĐBSH đồng dân, mật độ cao là do vùng này có trình độ thâm canh lúa lớn nhất cả nước, mà thâm canh lúa ở ĐBSH chưa
phải bằng KHKT là chính mà bằng sức người, vì thế sản xuất lúa ở ĐBSH cần rất nhiều lao động.

- ĐBSH đông dân, mật độ cao cũng là do vùng này có mật độ đô thị lớn nhất cả nước với 3 thành phố lớn rất đông dân là Hà
Nội, Hải Phòng, Nam Đinh và 10 thị xã trực thuộc, ĐB vùng này có nhiều ngành công nghiệp quan trọng như cơ khí, điện tử, hóa
chất, chế biến thực phẩm rất phát triển. Lại có hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng lớn cả nước. Chính vì vậy thu hút nhiều nhân
lực nhiều thế hệ trẻ đến đây cư trú, ăn học, lập nghiệp.

- ĐBSH tuy là vùng đã có trình độ dân trí cao nhưng dân số của vùng nhìn chung rất trẻ. Theo số liệu thống kê năm 89 số
người dưới 30 tuổi của vùng chiếm tới 68% tổng số dân dẫn đến tỉ lệ sinh ở vùng này rất cao năm 89 đã đạt 2.24%, năm 93 đạt
2,3% và đến năm 99 tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của vùng giảm xuống 1,4%. Qua đó ta thấy tỉ lệ sinh, tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên
của vùng vẫn còn cao (vẫn đạt mức trung bình trên thế giới). Đó cũng là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến dân số vùng này đông
và mật đo cao.

Như vậy ta thấy ĐBSH hiện nay vẫn còn đông dân, mật độ dân số cao là do ảnh hưởng tổng hợp của những nguyên nhân
trên.

* Hậu quả của vấn đề này:
- Dân số ở ĐBSH đông và mật độ cao trước hết làm cho diện tích đất nông nghiệp bình quân trên đầu người ngày càng giảm
dần: nếu như bình quân đất nông nghiệp trên đầu người ở cả nước hiện nay là 0,0892 ha/người thì ở ĐBSH chỉ bằng 0,046ha/người
mà chỉ tiêu này vẫn còn tiếp tục giảm xuống cùng với sự gia tăng dân số và đô thị hóa.

- Do đất nông nghiệp ngày càng giảm thì buộc người nông dân trong vùng phải đầu tư thâm canh, xen canh tăng vụ rất cao
để lấy đủ lương thực cung cấp cho nhu cầu nhưng lại không đủ điều kiện về vốn, phân bón để bồi trả lại sự màu mỡ cho đất làm cho
đất đai trong vùng ngày càng thoái hóa, bạc màu giảm độ phì ® năng suất lương thực ngày càng giảm và ngày càng giảm tới xu thế
giới hạn.

- Dân số ở ĐBSH đông, tăng nhanh nhưng tốc độ phát triển kinh tế rất chậm gây ra sự mất cân đối giữa sự gia tăng dân số
và tăng trươngr kinh tế (vào thời kỳ 90-95 tốc độ gia tăng dân số vẫn là 2%/năm nhưng tốc độ gia tăng kinh tế chỉ đạt 4-5%/năm.
Điều này khẳng định tốc độ tăng dân số cao hơn nhanh hơn so với tốc độ gia tăng kinh tế. Vì nếu có gia tăng dân số 1% năm thì
phải tăng kinh tế từ 3-4% năm. Nhưng hiện nay dân số đang có xu hướng giảm dần với tốc độ gia tăng dân số trung bình của vùng
1,4%/năm mà tốc độ gia tăng kinh tế đã đạt 7%/năm điều đó mở ra triển vọng là sự cân đối này ngày càng trở thành hiện thực.

- Do dân số đông tăng nhanh lại có mật độ trung bình cao nên đã gây sức ép lớn với vấn đề giải quyết việc làm cho người
lao động trong vùng mà điển hình là nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng ở các vùng đô thị rõ nhất là tỷ lệ thất nghiệp ở Hà Nội 90
-95 đã lên tới 18,4%, ở Hà Tây 9,2%, ở Thái Bình có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất cũng đạt 7,4%.
Hậu quả của dân số đông, mật độ cao nói chung ở Đồng bằng sông Hồng đều dẫn đến chất lượng cuộc sống ngày càng giảm
và môi trường ngày ô nhiễm, suy thoái nhanh.

* Các biện pháp giải quyết.
Muốn giải quyết vấn đề dân số ở ĐBSH sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau trước hết là:
- Thực hiện triệt để sinh đẻ có kế hoạch, giảm tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên tốt nhất là xuống dưới 1%/năm với chỉ tiêu hiện
nay đạt ra là mỗi năm giảm 50/00. Cần phải triệt để thực hiện chính sách di dân đi khai hoang phát triển kinh tế mới ở tây bắc, tây nguyên và đông nam bộ. Kết quả của thực hiện chính sách này trong vùng đạt nhiều tiến bộ cụ thể là nhiều tỉnh đạt cường độ di dân di dân ở chỉ số âm điển hình ở Hà Nội -1,25%, Thái Bình -2,03%.

- Phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa để giảm dần tỷ lệ lao động thuần
nông tăng dần hiệu quả lao động công nghiệp, nâng cao mức sống và nâng cao trình độ dân trí.
 

Đề thi đánh giá năng lực

28 tháng 1 2016

* Những định hướng phát triển kinh tế - xã hội ĐBSH hiện nay.
- Cần phải phát triển kinh tế - xã hội theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào chuyển từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp
là chính sang cơ cấu kinh tế công nghiệp là chính.
 

* Cơ sở khoa học của định hướng này là:
- Trước hết đất nông nghiệp trong vùng rất ít hiện nay chỉ có khoảng 70 vạn ha với bình quân đất trên đầu người thấp nhất
cả nước 0,46 ha/người, trong khi đó dân số trong vùng vẫn tiếp tục tăng thêm mặc dù tốc độ tăng đã giảm dần.

             + Khi đất nông nghiệp ngày càng giảm và dân số ngày càng tăng thì buộc người nông dân phải tiếp tục phải đầu tư thâm
canh cao hơn nữa để tăng năng suất cây trồng, nhưng lại thiếu vốn nên không đủ khả năng hoàn trả lại chất d2 cho đất nên đất đai
ngày càng thoái hóa giảm độ phì - năng suất cây trồng giảm theo.

             + Mặc dù năng suất cây trồng, vật nuôi ở ĐBSH hiện nay đã khá cao so với cả nước (năng suất trung bình 99 đạt 61 tạ/ha và có nhiều cánh đồng, nhiều huyện từ 8-10 tấn/ha, nhưng có thể năng suất lương thực của vùng đang dần dần tiến tới giới hạn cho nên  sản lượng LT-TP của vùng xu thế trong tương lai sẽ giảm và không đủ đáp ứng cho nhu cầu con người ngày càng tăng lên. Chính vì vậy nếu không ta cứ tiếp tục duy trì phát triển nông nghiệp ở ĐBSH thì không bao giờ đáp ứng đủ LT-TP cho con người.

- Trên những cơ sở khoa học nêu trên dẫn đến ĐBSH cần phải thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo xu thế giảm dần
phát triển nông nghiệp, tăng dần phát triển công nghiệp và các ngành dịch vụ. Vì phát triển công nghiệp trong vùng có nhiều lợi thế
như:
              + Tài nguyên khoáng sản trong vùng khá phong phú điển hình có than nâu, dầu khí, VLXD có nguồn nguyên liệu thuỷ hải
sản phong phú.
               + Trong vùng có nguồn lao động dồi dào trình độ chuyên môn kỹ thuật tay nghề.
               + Trong vùng có CSVCHT vững mạnh cho sự nghiệp công nghiệp hóa đặc biệt có mạng lưới công nghiệp hoá điển hình có
hệ thống GTVT-TTLL, có nhà máy hiện đại, nhiều nhà máy truyền thống.
               + Trong vùng rất năng động nên có khả năng thu hút nhiều nguồn vốn, nhiều dự án đầu tư quốc tế.
Trên cơ sở những lợi thế đó dẫn đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiêp là chính sang công nghiệp và dịch vụ ở
ĐBSH là hợp lý.

- Thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở ĐBSH theo xu hướng công nghiệp hóa.
                + Vì ĐBSH là địa bàn của nhiều tỉnh, nhiều thành phố có các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội - nhân văn và những thế
mạnh khác nhau cho nên việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo xu thế công nghiệp hóa không phải bằng cách cùng một lúc các tỉnh
trong vùng đều thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp cho nên tỉnh nào có điều kiện thuận lợi trước thì
chuyển đổi trước và chuyển đổi dần2 sang xu thế công nghiệp hóa còn các tỉnh khác chưa có điều kiện thuận lợi thì chuyển đổi từ từ
để vẫn đảm bảo lương thực cho con người.

               + Trong khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang công nghiệp thì phải ưu tiến phát triển các ngành dịch vụ như GT-TTLL, VHGD,
gia công, xuất khẩu... vì vùng này đông dân lao động dồi dào, bản chất cần cù, năng động rất khéo tay nên ngoài các ngành để
phát triển mạnh như giao thông, du lịch thì đẩy mạnh phát triển gia công xuất khẩu là hợp lý, đồng thời cũng là đảm nhận một công
đoạn trong dây truyền công nghệ của TG hiện nay.
 

28 tháng 1 2016

* Khái quát.
- ĐBSH có diện tích tự nhiên rộng khoảng 1,3 triệu ha chiếm khoảng 3,8% so với cả nước. Quỹ dân số (99) là 14,8 triệu
người chiếm khoảng 19% so với dân số cả nước.

- ĐBSH là vùng lãnh thổ của 7 tỉnh và 2 thành phố tương đương cấp tỉnh đó là: Thái Bình, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên,
Nam định, Ninh Bình, Hà Nam và 2 thành phố là hà Nội, Hải Phòng tương đương cấp tỉnh.

- ĐBSH là vùng đã hình thành một cơ cấu công nông nghiệp khá hoàn chỉnh với nhiều ngành kinh tế trọng điểm như cơ khí,
điện tử, chế biến nông lâm thuỷ sản.

- ĐBSH hiện nay là vùng đang diễn ra chuyển đổi cơ cấu kinh tế mạnh mẽ nhất theo xu hướng công nghiệm hóa, hiện đại
hóa...

* Những nguồn lực tự nhiên kinh tế - xã hội.

Thuận lợi : 
-Thuân
+ Vị trí địa lý thuận lợi:
Trước hết ĐBSH có thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa lớn nhất cả nước nên luôn được mọi miền đất nước
hướng về. ĐBSH lại tiếp giáp với biển đông, bờ biển dài 400 km, lại có cảng biển Hỉa Phòng thông ra biển lớn thứ 2 cả nước đồng thời lại nó lại nằm ở hạ lưu của 2 con sông lớn đó là sông Hồng và sông Thái Bình cho nên vùng này không những được phù sa của sông ngòi bồi đắp màu mỡ mà rất dễ dàng giao lưu với các nước khác bằng đường biển và nguồn tài nguyên biển rất phong phú.

+ Tài nguyên đất đai nhìn chung là rất màu mỡ vì chủ yếu là đất phù sa ngọt của lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình trong
đó nhất là lưu vực sông Hồng màu mỡ hơn nhiều lưu vực sông Thái Bình, trong 2 vạn ha đất hoang chưa khai thác (99) của đồng
bằng thì có 1 vạn ha là mặt nước, mặt lợ rất tốt cho nuôi trồng thuỷ sản , đồng thời đất đai trong vùng đều phân bố trên địa hình khá
bằng phẳng nổi tiếng như Thái Bình cho nên dễ khai thác, dễ đầu tư thâm canh tăng năng suất để phát triển lương thực thực phẩm.

+ Khí hậu trong vùng là khí hậu nhiệt đới ấm gió mùa nhưng có mùa đông lạnh từ 11 ® 4 có nhiệt độ trung bình năm 25-
260c, trong đó nhiệt độ trung bình vào mùa đông từ 13-160c, lượng mưa trung bình 1400-1600mm, tổng t 0 h/động 90000 - 95000c,
nên cho phép sản xuất lương thực - thực phẩm đa dạng và nhiều vụ quanh năm mà điển hình có hệ thống cây sau vụ đông rất phong phú.

+ Nguồn nước tưới trong vùng rất dồi dào do có lượng mưa lớn lại có sông ngòi dày đặc với 2 sông lớn là sông Hồng, sông
Thái Binh với tổng trữ lượng nước trong vùng trên 30 tỉ m3 và tổng lượng phù sa khoảng 16 triệu tấn, cho nên ĐBSH nếu phát triển
thuỷ lợi tốt thì đủ khả năng cung cấp nước tưới quanh năm. Mặt khác do phù sa lớn dẫn đến các vùng cửa sông, ven biển mỗi năm
trung bình thường tiến thêm ra biển hàng trăm mét, nhờ vậy mà ta có thể tiến hành quai đê lấn biển mở rộng thêm diện tích cho
đồng bằng.

+ Tài nguyên sinh vật ĐBSH tuy sinh vật hoang dã cạn kiệt gần hết và thay vào đó bằng hệ thống cây trồng vậy nuôi rất đa
dạng. Điển hình trữ lượng thuỷ hải sản trong vùng khá lớn chiếm khoảng 20% trữ lượng cả nước, là nguồn tài nguyên cho phép
đánh bắt chế biến nuôi trồng với quy mô trung bình và vừa.

+ Tài nguyên khoáng sản điển hình có trữ lượng than nâu 980 triệu tấn, nhưng phân bố dưới độ sâu từ 300-1000m khó khai
thác, trong vùng đã phát hiện nhiều mỏ khí đốt nằm dọc bờ biển Thái Bình điển hình như mỏ khí Tiền Hải - Thái Bình trữ lượng 1 tỉ
m3. Đặc biệt trong vùng khá phong phú về các loại vật liệu xây dựng như đá vôi: Hải Phòng, Hải Dương, đất sét Kim Môn - Hải
Dương làm gồm sứ và cát thuỷ tinh Vân Hải - Hải Phòng... là những nguồn khoáng sản quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa
trong vùng.

+ ĐBSH được coi là vùng có tài nguyên tự nhiên để phát triển du lịch rất đa dạng, rất hấp dẫn, nổi tiếng với nhiều hang
động như động Hương Tích và bên cạnh vùng lại có Vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới, có nhiều bãi tắm nổi tiếng như
Sầm Sơn, Đồ Sơn... Đặc biệt có cảnh quan thiên nhiên mà được tạo nên bởi con người rất hấp dẫn đó là ngành du lịch S/thái. Tiềm
năng thiên nhiên ĐBSH là cơ sở để phát triển du lịch trong nước và quốc tế.

+ Dân số và lao động ĐBSH rất dồi dào đặc biệt người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật tay nghề cao, nhiều thợ
giỏi, thợ bậc cao nhất ở khu vực phía Bắc và đặc biệt có trình độ dân trí cao nên là động lực chính để thực hiện chuyển đổi cơ cấu
kinh tế theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

+ Dân cư và lao động ở ĐBSH vì có lịch sử khai thác lâu đời nên đã tạo ra một nền văn hóa đa dạng nổi tiếng với nhiều lễ
hội như lễ Chùa Hương, Lễ Hội Lim... là nguồn tài nguyên văn hóa, xã hội nhân văn kích thích ngành du lịch văn hóa và nhân văn
phát triển.

+ CSVTHT ở ĐBSH khá phát triển, hoàn thiện mà biểu hiện là:
           . Trước hết vùng này có mật độ giao thông đường bộ cao nhất cả nước trung bình 1,18km/km2, trung bình cả nước chỉ có
0,32 km/km2 với nhiều quốc lộ quan trọng như 1,2,3, 5, 6; nhiều tuyến đường sắt quan trọng như Hà Nội - Hải Phòng; Hà Nội -
Thái Nguyên; Hà Nội - Lạng Sơn... Đặc biệt có sân bay quốc tế Nội Bài lớn thứ 2 cả nước, cảng biển Hải Phòng lớn thứ 2 cả nước
và 2 trạm thu tin mặt đất từ vệ tinh.
           . Trong vùng có nhiều trung tâm công nghiệp, nhiều thành phố lớn với mật độ đô thị cao nhất cả nước mà điển hình có 3
thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định, 10 thị xã trực thuộc với số dân đô thị hiện nay chiếm tới 35%.
           . Trong vùng đã hình thành nhiều ngành công nghiệp trọng điểm như cơ khí điện tử, dệt may chế biến nông lâm thuỷ hải
sản, ngành này được trang bị kỹ thuật hiện đại và thu hút nhiều nguồn vốn nước ngoài.

+ Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng thì nhờ có thủ đô Hà Nội nằm trong vùng nên luôn gần Đảng,
gần Nhà nước. Vì thế ĐBSH luôn được Nhà nước quan tâm triển khải thực hiện đầu tiên những chủ trương, đường lối chính sách
của Đảng, đặc biệt là những năm qua Nhà nước ta đã đổi mới đúng đắn với nhiều chính sách hợp với lòng dân nên đã kích thích sản
xuất trong vùng ngày càng phát triển.

- Khó khăn:
+ ĐBSH cũng như cả nước nằm trong khu vực được coi là nhiều thiên tai nhất thế giới mà biểu hiện là khí hậu, thời tiết
diễn biến thất thường khắc nghiệt nhiều thiên tai như nhiều bão, mưa lụt, hạn hán, rét đậm... Cho nên trong phát triển kinh tế - xã
hội đặc biệt là nông lâm ngư luôn luôn phải đầu tư lớn để hạn chế và phòng ngừa hậu quả của thiên tai.

+ ĐBSH vì là vùng đất hẹp người đông nên đất đai ĐB là đất nông nghiệp bình quân trên đầu người ngày càng giảm dần
cộng với quá trình khai thác sử dụng đất chưa thật hợp lý dẫn đến đất đai ngày càng thoái hóa, bạc màu, giảm độ phì nhiêu...

+ Do quá trình công nghiệp hóa, độ thị hóa ngày càng phát triển nên đất nông nghiệp không những giảm dần về diện tích mà
nhiều vùng đang có nguy cơ bị ô nhiễm đất, nước giảm năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi ảnh hưởng xấu đến đời sống con
người.

+ Nguồn lao động tuy dồi dào nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật tay nghề vân còn thấp với lao động thủ công vẫn là
chính nên hiệu quả sản xuất thấp.

+ CSVTHT hiện nay nhìn chung vẫn còn nằm trong tình trạng lạc hậu kém phát triển và phân bố chưa đồng đều, đặc biệt là những vùng nông thôn vẫn còn rất nghèo nàn với CSHT nên chưa đáp ứng nổi cho nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Cho nên Nhà nước ta cần phải nghiên cứu, vạch ra những phương hướng tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội trong vùng theo xu
thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

28 tháng 1 2016

* Thành tựu và đóng góp của ngành giáo dục.
- Nền giáo dục nước ta trước hết góp phần hình thành nên nhân cách con người Việt Nam mới đó là con người có lòng yêu
nước nồng nàn, sẵn sàng, hy sinh quên mình vì đất nước.

- Nền giáo dục nước ta đã xây dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh khá vững mạnh đến năm 99 có 23000
trường phổ thông, 239 trường trung học chuyên nghiệp, 110 trường cao đẳng, đại học. Mạng lưới trường học này góp phần đào tạo
nên một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước mà cụ
thể là đến năm 98 cả nước có 682000 sinh viên trong đó tốt nghiệp 103000. Có số sinh học sinh trung học chuyên nghiệp là 178000
người, số công nhân kỹ thuật 114000 người. Đội ngũ lao động này sẽ và đang giữ trọng trách trong lĩnh vực kinh tế- xã hội cả nước.

- Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đã xóa nạn mù chữ toàn dân là 92% số người từ 10 tuổi trở lên biết đọc biết viết (năm 93
chỉ có 88%) và hiện nay đang có 17 triệu trẻ em đang đến trường, đó là biểu hiện tính ưu việt của chế độ ta.

- Nền giáo dục nước ta hiện nay đã hình thành nhiều trung tâm nghiên cứu đào tạo giáo dục quy mô lớn ngang tầm khu vực
đông nam á và quốc tế điển hình như Hà Nội, TPHCM bên cạnh đó còn có nhiều trường đại học ở các khu vực, địa phương như đại
học Vinh, Huế, Thái Nguyên... Việc hình thành mạng lưới trường học như vậy là để thu hút mọi tầng lớp con em lao động tham gia
học tập.

- Nền giáo dục Việt Nam đã góp phần đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước trong đó có nhiều nhân tài là những việt kiều
yêu nước, những nhân tài này đã làm rạng rỡ cho non sông đất nước.

- Nền giáo dục Việt Nam góp phần to lớn trong việc đào tạo ra đội ngũ kế cận cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

- Nền giáo dục Việt Nam ngày nay đang được Đảng và nhà nước ưu tiên phát triển mạnh không những ở đồng bằng, đô thị
mà còn ưu tiên đặc biệt cho phát triển giáo dục ở miền núi để nâng cao dân trí góp phần văn minh hóa đời sống xã hội, bảo vệ an
ninh quốc phòng.

- Nền giáo dục Việt Nam ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác trao đổi với nền giáo dục thế giới nhờ
vào chính sách mở cửa và mở rộng hợp tác của nhà nước càng làm cho nền giáo dục nước ta nhanh chóng hội nhập với nền giáo dục quốc tế.

* Thành tựu và đóng góp của ngành y tế.
- Nền y tế Việt Nam trước hết đã góp phần chăm lo sức khoẻ cho toàn dân nghĩa là mọi thành viên trong xã hội đều có
quyền khám bệnh, chữa bệnh theo nhu cầu.

- Nền y tế Việt Nam hiện nay đã hình thành một cơ sở VTHT khá vững mạnh có đầy đủ các loại hình bệnh viện như bệnh
viện đa khoa, chuyên khoa, phòng khám; nhiều hình thức khám bệnh như khám bệnh quốc doanh, khám bệnh tư nhân và ngoài giờ.
Tính năm 99 ngành Y tế nước ta trung bình cứ 1000 dân thì có khoảng 34 giường bệnh và 11 y, bác sĩ. Mặc dù CSVT còn
nghèo nạn nhưng mạng lưới y tế đã phát triển đến cấp xã, mỗi xã cũng ít nhất có 1 trạm xá và đội ngũ bác sĩ đến tận cấp xã.

- Nền y tế Việt Nam đã góp phần làm giảm tỉ lệ tử của trẻ sơ sinh từ 79/104 vào năm 70 xuống còn 44/104 vào 99. Đồng thời
cũng làm tăng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam từ 55 tuổi (70) - 65 tuổi (99) nam; - 70 tuổi (99) nữ.

- Nền y tế Việt Nam cũng đã góp phần xoá sạch một số bệnh dịch nguy hiểm chết người như kiết lị, ỉa chảy, thương hàn,
phong, lao... đồng thời phong trào phòng chống bệnh thế kỷ của loài người đang diễn ra ở Việt Nam đó là chống bệnh HIV.

- Nền Y tế Việt Nam ngày nay không những được phát triển mạnh ở đồng bằng, đô thị mà còn được Nhà nước quan tâm tới
phát triển y tế Miền núi, trung du và đến ngày nay ta có thể tự hào rằng nước ta đã có nền y tế phát triển có trình độ cao hơn hẳn 1 số nước có mức sống trung bình cao hơn nước ta.

- Nền y tế Việt Nam đã đào tạo được 1 đội ngũ thầy thuốc vừa có chuyên môn giỏi, nhân cách tốt, "lương y như từ mẫu".

- Trước hết ta đã xây dựng được 1 mạng lưới văn hóa rộng khắp trên địa bàn cả nước đó là hệ thống các nhà văn hóa, câu lạc
bộ, thư viện và đặc biệt ta đã xây dựng được mạng lưới truyền thanh, truyền hình phủ sóng toàn quốc. Những năm gần đây ta đã nối
với mạng truyền hình quốc tế đặc biệt có mạng internet.

- Ngành văn hóa Việt Nam đã góp phần tuyên truyền giáo dục toàn dân nắm bắt nhanh chóng những chủ trương đường lôí,
chính sách của Đảng và cũng góp phần nâng cao dân trí cho toàn dân.

- Nhờ có mạng lưới văn hóa ngày càng hiện đại có quá trình bùng nổ văn hóa, du lịch ngày càng mạnh mẽ nên đã tạo đIều
kiện thuận lợi cho nhân dân ta tiếp thu được văn minh tinh hoa của thế giới, làm cho nền văn hoá nước ta ngày càng thêm phong
phú và hiện đại.

- Do nền văn hóa nước ta đã phong phú đa dạng và giầu bản sắc dân tộc lại được tiếp thu những tinh hoa, văn minh của thế
giới có chọn lọc lại càng làm cho nền văn hóa Việt Nam vừa đậm đà nét truyền thống dôn tộc, vừa hiện đại.

* Những tồn tại, khó khăn và phương hướng phát triển của nền giáo dục, y tế, văn hóa.
- Có thể nói cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng của nền giáo dục y tế, văn hóa cả nước vẫn còn nằm trong tình trạng lạc hậu kém
phát triển và thể hiện rõ nhất ở các vùng nông thôn Miền núi Trung du.

- Nền giáo dục, văn hóa, y tế nói chung trình độ chuyên môn kỹ thuật tay nghề còn rất lạc hậu chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu
về khám bệnh, chữa bệnh.

- Nền giáo dục, văn hóa, y tế hiện nay vẫn còn nhiều tiêu cực trong giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh.

- Nền giáo dục, văn hóa, y tế phân bố chưa đồng đều, chưa hợp lý giữa các vùng lãnh thổ mà chủ yếu chỉ được phát triển
mạnh ở các vùng đô thị mà điển hình ở đô thị lớn, còn ở các vùng nông thôn, miền núi trung du thì những ngành này còn kém phát
triển.

- Trừ ngành y tế có những tiến bộ còn ngành giáo dục, văn hóa nước ta vẫn còn tụt hậu so với các nước trong khu vực và
trên thế giới.

Do những tồn tại khó khăn trên nên nhà nước ta đã vạch ra một số phương hướng để phát triển y tế, giáo dục, văn hóa như sau:
- Đối với giáo dục thì phải tiếp tục thực hiện đa dạng hóa nền giáo dục tiến tới xã hội hóa nền giáo dục, phổ cập cấp I cho
toàn dân, kiên quyết chống nạn tái mù chữ xuất hiện. Đồng thời ưu tiên nhiều hơn cho ngành sư phạm...

- Đối với y tế tăng cường đầu tư thêm để hiện đại hóa CSHT về phương tiện khám bệnh, chữa bệnh, tiếp tục đào tạo một đội
ngũ thâyd thuốc có tay nghề cao và nhân cách tốt hơn nữa. Đồng thời mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế để học tập trao đổi kinh
nghiệm khám bệnh, chữa bệnh, tiếp thu công nghệ hiện đại. Song song với hiện đại hóa nền y học thì phải phát huy cao độ truyền
thống y học dân tộc (kết hợp chặt chẽ đông y, tây y) để đáp ứng mọi nhu cầu khám bệnh cho toàn dân.

- Đối với văn hóa thì phải tăng cường đầu tư hiện đại hóa CSVTKTHT đặc biệt ưu tiên cho miền núi trung du, đồng thời
phải có ý thức ngăn ngừa tình trạng "ô nhiễm xã hội" do bùng nổ văn hóa du lịch để làm cho nền văn hóa nước ta ngày càng vừa
hiện đại vừa mang đậm đà bản sắc dân tộc.

28 tháng 1 2016

* Nền giáo dục nước ta hiện nay phát triển tương đối hoàn chỉnh và khá đa dạng thể hiện như sau:
- Nền giáo dục nước ta phát triển tương đối hoàn chỉnh trước hết biểu hiện là đã hình thành được đầy đủ các cấp học từ cấp
mẫu giáo mầm non đến cấp Đại học và trên đại học.


- Nền giáo dục nước ta hoàn chỉnh cũng thể hiện bởi nước ta đã hình thành được đầy đủ các loại trường đào tạo như các
trường phổ thông, các trường dân lập, các trường dân lập nội trú, trường dành cho trẻ mồ côi, khuyết tật, trường giành cho trẻ NK...
Hệ thống trường học được hình thành như vậy là để đào tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đối tượng con em nhân dân được tham gia
học tập.


- Nền giáo dục nước ta ngày nay phát triển rất đa dạng thể hiện bởi đã hình thành được nhiều hệ đào tạo, nhiều loại hình đào
tạo điển hình như hệ chính quy, hệ chuyên tu, hệ tại chức, hệ đào tạo từ xa. Sự phát triển đa dạng như vậy là để thu hút mọi tầng lớp lao động tham gia học tập tuỳ theo điều kiện cụ thể của mình nhằm nâng cao dân trí với mục đích xã hội hóa nền giáo dục.


- Nền giáo dục nước ta phát triển với tốc độ khá nhanh. Nếu như trước CM tháng 8 cả nước chỉ có khoảng 10 trường PTTH,
1 cơ sở đại học thì ngày nay nước ta đã có khoảng 19 nghìn trường phổ thống các cấp, 103 trường cao đẳng đại học, 270 trường
trung học chuyên nghiệp và 230 trường công nhân kỹ thuật. Hệ thống trường học này lại được phân bố khá đồng đều, hợp lý giữa
các vùng lãnh thổ ở cả nước nói chung. Trong đó ĐBSH và Trung du Miền núi phía Bắc là vùng có số trường phổ thống nhiều nhất
cả nước với mỗi vùng trên 3000 trường, còn Tây Nguyên là vùng ít trường nhất cũng có gần 1000 trường. Còn các trường cao đẳng
Đại học chủ yếu tập trung ở ĐBSH khoảng 45 trường sau đó vùng Đông Nam Bộ khoảng 19 trường. Tây Nguyên là vùng ít trường
cao đẳng, đại học nhất cũng có 4 trường. Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp như vậy là thể hiện tính ưu việt của chế độ ta
nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các con em dân tộc được tham gia học tập.


- Hiện nay, nền giáo dục nước ta đã hình thành nhiều trung tâm giáo dục, đào tạo qui mô lớn và lớn nhất là Hà Nội, TPHCM
và nhiều trường đại học có tâm cỡ các nước trong khu vực và thế giới. Điển hình như ĐHQG, ĐHBK... những trung tâm, trường đại
học qui mô lớn ở nước ta ngày càng được Nhà nước đầu tư phát triển mạnh để nhanh chóng ngang tầm các nước trong khu vực và
thế giới, để đào tạo ra 1 đội ngũ kế cận cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

* Tuy vậy nền giáo dục nước ta ngày nay vẫn còn nhiều tồn tại là:
- Hệ thống cơ sở hạ tầng của nền giáo dục vẫn còn nghèo nàn lạc hậu và lại đang xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt đối với
các vùng sâu, vùng xa không đầy đủ phương tiện để học và dạy học.

- Chất lượng giáo dục đào tạo ở nước ta nhiều năm qua có xu thế giảm sút. Vì trước đây Nhà nước ta chưa quan tâm đúng
mức đến ngành giáo dục nói chung và ngành sư phạm nói riêng; mặt khác nền giáo dục nước ta hiện nay xuất hiện nhiều tiêu cực,
đặc biệt là trong thi cử và cũng còn xuất hiện tệ nạn ma tuý học đường.

Nhìn chung có thể nói nền GDĐT nước ta ngày nay vẫn còn lạc hậu nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới.

* Phương hướng.
- Trước hết phải đổi mới giáo dục đào tạo mà thể hiện trước tiên bằng cách tăng cường đầu tư vốn cho phát triển GDĐT theo
như Nghị quyết 2 của TW vạch ra vào năm 96 là tăng ngân sách cho GDĐT từ 2%-15%. Việc tăng ngân sách GDĐT là để tăng
cường đầu tư hiện đại cơ sở hạ tầng cho học và dạy học. Đồng thời tăng thêm chế đọ ưu đãi chính sách cho thầy cô để họ yên tâm,
tâm huyết với nghề nghiệp.

- Trong phương hướng phát triển GDĐT cần phải ưu tiên nhiều cho ngành sư phạm, vì đó là ngành rất quan trọng đào tạo
con người phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước lâu dài - Ưu tiên đầu tư nhiều cho phát triển GDĐT cho Miền núi
Trung du góp phần nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc và cũng góp phần bảo vệ an ninh quốc gia.

- Phải mở rông hợp tác giao lưu quốc tế tạo điều kiện trao dổi, học tập kinh nghiệm về giảng dạy đào tạo nhằm góp phần cho
nền giáo dục nước ta nhanh chóng hội nhập.
 

28 tháng 1 2016

* Các nguồn lực tự nhiên:
- Thuận lợi:
+ Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi với kinh tế đối ngoại vì:
. Nước ta nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới bắc bán cầu, nên cho phép nước ta sản xuất được nhiều nguồn hàng nông - lâm -
thuỷ - hải sản nhiệt đới đặc sản có giá trị xuất khẩu cao.

. Nước ta lại nằm ở nơi gặp gỡ giao thoa của các đường hàng không hàng hải quốc tế từ TBDương ® AĐDương. Vì vậy rất
thuận lợi để mở rộng giao lưu quốc tế bằng đường biển , đường hàng không đồng thời là cơ hội để đẩy mạnh phát triển du lịch quốc
tế vì nước ta sẽ là nơi dừng chân thuận lợi của nhiều tàu thuyền quốc tế.

. Nước ta lại nằm rất gần các nước Nic Châu á lại gần Nhật Bản và Trung Hoa là những nước có nền kinh tế rất phát triển ở
châu á, vì thế rất thuận lợi để mở rộng thị trường XNK và tiếp thu công nghệ hiện đại.

+ Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nước ta phân hóa sâu sắc theo mùa (với mùa đông lạnh kéo dài ở miền Bắc).
ở trên độ cao 1000m có khí hậu cận nhiệt đới ôn đới rất thuận lợi để sản xuất nhiều nông sản đặc sản có giá trị xuất khẩu cao
như chè búp, cà phê, cao su tiêu điều mà điển hình là gạo.

+ Đất đai nước ta đa dạng về loại hình với nhiều loại đất feralit và nhiều loại đất phù sa điển hình với nhiều loại đất tốt như
đất đỏ ba zan, đất feralit đỏ vàng rất phù hợp với trồng những cây công nghiệp cây ăn quả, đặc sản để xuất khẩu như cà phê, cao su, vải thiều, lạc, dứa...

+ Tài nguyên lâm sản nước ta cũng rất phong phú bởi có nhiều loại gỗ quý như đinh, lim, sến, táu, cẩm lai, pơmu, tre trúc,
song, mây là những sản phẩm lâm sản có giá trị xuất khẩu cao ở thị trường châu Âu.

+ Tài nguyên thuỷ hải sản ở nước ta rất phong phú với trữ lượng từ 3-3,5 triệu tấn với khả năng đánh bắt từ 1,2-1,4 triệu tấn
với sản lượng đánh bắt hiện nay 700 ngàn tấn cá và 50-60 tấn tôm mực, trong đó có nhiều loài hải sản quý có giá trị xuất khẩu cao
như cá thu, cá chim, tôm hùm, sò huyết. Chính vì vậy mà riêng ĐBSCL mỗi năm cho xuất khẩu 10 vạn tấn tôm cá.

+ TàI nguyên khoáng sản nước ta đa dạng về loại hình trong đó có nhiều loại khoảng sản chất lượng tốt như than đá Quảng
Ninh, ... thuỷ tinh ven biển thiếc, apatít, dầu mỏ... Những khoáng sản này là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Vì thế mỗi năm ta xuất
khẩu từ 600-700 ngàn tấn than, 300 ngàn tấn quặng apatit, 1500 tấn quặng thiếc... đặc biệt 1996-1997 ta xuất khẩu trên 60 triệu tấn
dầu thô.

+ Việc khai thác các nguồn tàI nguyên thiên nhiên nước ta gặp nhiều khó khăn, mặc dù trữ lượng lớn, chất lượng tốt như
khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam khai thác quặng sắt ở Thạch Khê... là cơ sở để thúc đẩy phát triển hoạt động đầu tư hợp
tác quốc tế mở rộng liên doanh với nước ngoài đặc biệt trong lĩnh vực khai thác dầu khí.

+ TàI nguyên thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa đa dạng hấp dẫn nhiều tiềm năng đặc biệt có phong cảnh thiên nhiên nhiệt
đới nổi tiếng như Vịnh Hạ Long nhiều hang động đẹp như Phong Nha, Hương Tích nhiều bãi tắm nổi tiếng như Sầm Sơn, Cửa Lò,
Nha Trang, vũng Tàu... là cơ sở để đẩy mạnh phát triển hoạt động du lịch quốc tế...

- Khó khăn:

+ Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa diễn biến thất thường khắc nghiệt và nhiều thiên tai đặc biệt là bão lũ lụt hạn hán gây
nhiều khó khăn cho việc tăng năng suất sản lượng chất lượng và bảo quản những sản phẩm nông - lâm - thuỷ hải sản xuất khẩu.

+ Trong môi trường nước ta đã và đang có nguy cơ cạn kiệt suy thoái nhanh như đất đai, nguồn nước khoáng sản sinh vật đã
làm giảm số lượng và chất lượng sản phẩm xuất khẩu.

+ Việc khai thác các nguồn trong xuất khẩu như dầu khí, quặng sắt... rất khó khăn, yêu cầu phải đầu tư vốn lớn kỹ thuật tinh
xảo, cho nên hiệu quả của hợp tác đầu tư quốc tế chưa cao.

+ Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa thất thường nhiều thiên tai mà mùa mưa bão thường trùng với mùa du lịch,d cho nên
việc phát triển du lịch quốc tế ở nước ta cũng gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp.

* Các nguồn lực kinh tế xã hội với phát triển kinh tế đối ngoại.

- Thuận lợi:

+ Dân số nước ta đông nhiều dân tộc với nền văn hóa đa dạng độc đáo giàu bản sắc chính là trong văn hóa lịch sử nhân văn
rất hấp dẫn với phát triển du lịch quốc tế.

+ Nguồn lao động nước ta không những dồi dào mà có trình độ chuyên môn kỹ thuật tay nghề cao, ý thức kỷ luật cao rất hấp
dẫn với mở rộng hợp tác lao động quốc tế.

+ Dân số nước ta đông lao động dồi dào là thị trường tiêu thụ lớn cho nên cũng chính là nguồn lực rất hấp dẫn với mở rộng
hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu, đặc biệt nguồn lao động nước ta có bản chất cần cù lại khéo tay cho nên có khả năng sản
xuất được nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất hấp dẫn với thị yếu của khách hàng nước ngoài.

+ CSVCHT nước ta vẫn nằm trong tình trạng lạc hậu chưa đáp ứng theo nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại
hóa. Vì vậy là thị trường rất hấp dẫn với mở rộng hợp tác liên doanh quốc tế trong việc đầu tư nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở hạ
tầng đặc biệt như hoạt động hóa mạng lưới giao thông thông tin hệ thống khách sạn...

+ Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đã có nhiều đổi mới tiến bộ mà cụ thể là đã thực hiện cơ chế thị trường, mở
rộng hợp tác nước ngoài và với ban hành luật đầu tư vào chính sách mở cửa... nên đã thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại phát
triển.

- Khó khăn.
+ Chất lượng lao động nước ta còn thấp nên hiệu quả trong hoạt động hợp tác lao động quốc tế chưa cao. Đồng thời trình độ
quản lý và tác phong công nghiệp hóa thấp, vẫn ảnh hưởng của cơ chế bao cấp cho nên còn hạn chế tới hiệu quả của hoạt động đầu tư hợp tác quốc tế và du lịch quốc tế.

+ CSVCHT của cả nước vẫn nằm trong tình trạng lạc hậu kém phát triển về mọi phương tiện, các hạn chế hiệu quả của hoạt
động kinh tế đối ngoại.

+ Đường lối chính sách thì đổi mới chậm duy trì cơ chế bao cấp lâu, thể hiện chính sách mở cửa chậm... đã làm giảm tiến độ
tăng trưởng trong kinh tế đối ngoại.

28 tháng 1 2016

 

* Trong những hoạt động kinh tế đối ngoại hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu được coi là hoạt động chủ chốt nhất là vì
những cơ sở sau đây:

Như đã biết trong hoạt động kinh tế đối ngoại gồm 5 loại hoạt động chính đó là hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu,
hoạt động đầu tư quốc tế hoạt động hợp tác lao động quốc tế, du lịch quốc tế thì:

- Hoạt động đầu tư hợp tác quốc tế thực chất mới được phát triển mạnh ở nước ta từ 1988 đến nay vì trước đó chủ yếu phát
triển với Liên Xô cũ trong lĩnh vực khai thác dầu khí. Sau 1998 thì nhờ chính sách mở cửa với luật đầu tư nước ngoài được ban
hành nên hoạt động này đã phát triển rộng hơn với nhiều nước tư bản như Anh, Nhật, Pháp... nhưng thực chất hoạt động này mới
chỉ giới hạn trong 1 số lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn nhanh. Mặc dù hiệu quả của hoạt động đầu tư quốc tế cao nhưng không ổn
định vì đối tác đầu tư chưa phù hợp với quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy mà hoạt động đầu tư quốc tế chưa
thể được coi là hoạt động chủ chốt trong kinh tế đối ngoại.

- Hoạt động hợp tác lao động quốc tế cũng chỉ mới bắt đầu ở nước ta từ thập kỷ 80 nhưng sau 10 năm hoạt động hợp tác lao
động với các nước Châu Âu và các nước Bắc Phi xuất hiện nhiều tiêu cực lớn biểu hiện là trình độ tay nghề của người lao động Việt
Nam còn thấp, ý thức lao động chưa cao, trình độ dân trí còn thấp. Mặc dù ngày nay ta đã khôi phục hoạt động hợp tác lao động
quốc tế nhưng quy mô nhỏ và chủ yếu mới giải quyết được việc làm cho 1 số lao động dư thừa... cho nên hoạt động này cũng chưa
được coi là hoạt động chủ chốt.

- Hoạt động du lịch quốc tế thực chất mới được phát triển từ 10 năm nay nhờ vào chính sách mở cửa, nhưng vì cơ sở vật
chất hạ tầng của cả nước còn nghèo nàn lạc hậu trình độ quản lý còn thấp... ® hiệu quả của hoạt động này chưa cao vì thế du lịch
quốc tế cũng chưa thể được coi là hoạt động chủ chốt trong kinh tế đối ngoại.

- Hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu khác với các hoạt động kinh tế đối ngoại trên là:

         + Hoạt động này có lịch sử từ lâu đời: ngay từ thế kỷ 16, 17 đã có nhiều tầu buôn nước ngoài từ ấn Độ, Trung Hoa, Hà Lan
đến buôn bán với nước ta ở cửa biển Hội an như vậy hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu ở nước ta đã xuất hiện từ đó.


         + Hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu liên tục được phát triển mạnh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
mặc dù trong thời kỳ này chủ yếu ta nhập khẩu các hàng tiêu dùng lương thực thực phẩm và các thiết bị quân sự nhưng quá trình
nhập khẩu đó đã biểu hiện sự phát triển ở hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu.


        + Hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu càng được phát triển mạnh trong những năm gần đây và liên tục được đổi mới mà
biểu hiện là giá trị xuất nhập khẩu ngày càng tăng, cán cân xuất nhập khẩu ngày càng cân đối thị trường xuất nhập khẩu ngày càng
rộng mở ra toàn thế giới. Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu ngày càng tiến bộ mà cụ thể là quyền hoạt động ngoại thương xuất nhập
khẩu đã được nhà nước mở rộng® cấp tư nhân.
       

        + Hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu ở nước ta ngày nay không những đã đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế cả nước
mà còn tạo cơ hội cho dân tộc ta, nhân dân ta tiếp thu được những tinh hoa văn minh của thế giới để tiến tới hội nhập nhanh... vì vậy
ta khẳng định rằng hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu phải là hoạt động chủ chốt trong kinh tế đối ngoại
 

* So sánh giống và khác nhau giữa kinh tế đối ngoại với ngành thương nghiệp.
- Giống nhau:

+ Cả 2 hoạt động kinh tế đối ngoại và thương nghiệp đều là những hoạt động có tính chất quan hệ hợp tác buôn bán giữa
nước ta với nước ngoài vì trong kinh tế đối ngoại thì có hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu, trong thương nghiệp có ngành
ngoại thương.

+ Cả 2 hoạt động này đều là những hoạt động kinh tế xã hội quan trọng không thể thiếu được đối với nền kinh tế của mỗi
nước.

+ Cả 2 hoạt động này ngày càng được phát triển mạnh tỉ lệ thuận với trình độ phát triển sản xuất và nền văn minh của mỗi
quốc gia.

- Khác nhau:


+ Phạm vi hoạt động của hoạt động kinh tế đối ngoại và thương nghiệp rất khác nhau biểu hiện là thương nghiệp chỉ giới
hạn trong lĩnh vực buôn bán, còn kinh tế đối ngoại thì ngoài phạm vi buôn bán còn nhiều hoạt động khác như hợp tác đầu tư quốc
tế, hợp tác lao động quốc tế du lịch quốc tế...

+ Trước kia thương nghiệp hoạt động buôn bán rộng hơn so với kinh tế đối ngoại vì phạm vi của nó gồm cả nội thương và
ngoại thương nhưng kinh tế đối ngoại chỉ giới hạn trong lĩnh vực buôn bán xuất khẩu và nhập khẩu.

+ Thương nghiệp đã từ lâu được coi là một ngành kinh tế quan trọng chính đó là ngành thương mại còn kinh tế đối ngoại
chưa được coi là một ngành mà chỉ mới được gọi là những hoạt động kinh tế đối ngoại.

 

28 tháng 1 2016

* Vai trò:
- Kinh tế đối ngoại nước ta gồm 5 hoạt động chính. Hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu, hoạt động đầu tư hợp tác quốc
tế, hoạt động hợp tác lao động quốc tế, du lịch quốc tế và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như thu đổi tiền ngoại tệ, bán hàng
lưu niệm bằng tiền nước ngoài... Phát triển các hoạt động này trước hết là để làm tăng thêm các nguồn ngoại tệ cho cả nước.

- Phát triển kinh tế đối ngoại là để mở rộng thị trường xuất nhập khẩu nhờ vậy mà nước ta có thể xuất khẩu được nhiều đặc
sản đổi lấy ngoại tệ và cũng nhập được nhiều thiết bị công nghệ hiện đại phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa.

- Là để cho thế giới xích lại gần ta củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc giữa nước ta với thế giới, cũng là để
nhân dân ta tiếp thu được tinh hoa văn hóa của thế giới tạo cơ hội hội nhập với nền văn minh quốc tế.

- Phát triển kinh tế đối ngoại cũng là góp phần củng cố an ninh và hòa bình ở khu vực Đông nam á và thế giới.
 

* Đổi mới (chuyển biến) kinh tế đối ngoại từ năm 1988 tới nay.
-  Đổi mới về hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu.

       + Hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu của nước ta trước năm 88 kém phát triển mà mới chỉ giới hạn phát triển với các
thị trường Liên Xô cũ và các nước đông âu. Nhưng từ năm 88 đến nay hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu được chuyển biến
trước hết là giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của cả nước đều tăng dần nhưng giá trị xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh hơn nhập khẩu
dẫn đến cán cân xuất nhập khẩu của cả nước ngày càng tiến tới cân đối và biểu hiện qua các số liệu sau:

Cán cân xuất nhập khẩu.Đơn vị triệu rúp - đô la
Năm cán cân
1988 - 1718,2
1989 - 619,8
1990 - 384,4
1992 + 40
2995 - 2706
Qua số liệu cho thấy trước năm 1992 cán cân xuất nhập khẩu của chúng ta đều mất cân đối lớn và đều đạt trị số âm do ta
mới bước đầu đổi mới nên hoạt động xuất khẩu chưa mạnh nhưng nhập khẩu rất mạnh vì cần có công nghệ tiên tiến.
Cán cân xuất nhập khẩu đạt mức cân đối lớn thể hiện rõ nhất vào năm 1992 nhưng đến năm 1995 cán cân xuất nhập khẩu lại
mất cân đối lớn vì trong công cuộc đổi mới ta phải nhập nhiều thiết bị công nghệ hiện đại tiên tiến rất tiên tiến nhưng giá trị các mặt
hàng xuất khẩu của ta nhìn chung rất rẻ tiền chủ yếu là nông lâm thuỷ hải sản. Nhưng nhìn chung nhờ công cuộc đổi mới nên nhìn
chung cán cân xuất nhập khẩu của cả nước ta đang dần tiến tới cân bằng.

-  Đổi mới của hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu theo xu hướng là mở rộng thì thị trường xuất nhập khâủ ra toàn thế
giới mà biểu hiện qua số liệu sau:
Thị trường xuất khẩu (%)
1991 1995
1) Châu á 74 79
2) Châu Âu 18 15
3) Châu Mỹ 5 3
4) Châu Phi 1 1
5) úc và Đại dương 2 2
Qua số liệu trên ta thấy trước hết thị trường xuất nhập khẩu của cả nước ngày càng mở rộng vì nếu như trước năm 1990 thị
trường xuất nhập khẩu giới hạn chủ yếu ở các nước thuộc khu vực 1 thì từ năm 91 tới nay thị trường xuất nhập khẩu trong nước ta
đã lan ra toàn thế giới.

Tỷ trọng XNK mặc dù vẫn chiếm tỷ lệ lớn thuộc lĩnh vực châu á và châu Âu nhưng tỷ lệ trong xuất nhập khẩu ở châu á có
xu hướng tăng dần và giảm dần ở châu Âu còn các nước châu Mỹ, châu Đại Dương vẫn đang chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng có cũng thể
hiện là trong quan hệ ngoại thương xuất nhập khẩu ở nước ta có nhiều đổi mới đã mở rộng thị trường xuất nhập khẩu sang cả Châu
Mỹ, CHâu Phi đặc biệt là Châu Mỹ. Sự đổi mới đó là nhờ vào đường lối mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế cùng với chính sách mở
cửa của Đảng và nhà nước ta.

- Đổi mới về cơ chế quản lý xuất nhập khẩu.
Nếu như trước năm 88 ta vẫn sử dụng cơ chế bao cấp để thực hiện hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu thì sau năm 88 ta
đã xoá bỏ cơ chế bao cấp thực hiện cơ chế thị trường trong hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu. Đồng thời nếu như Nhà nước
độc quyền bởi hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu thì nay Nhà nước đã mở rộng quyền xuáat nhập khẩu cho các địa phương và
cả tư nhân. Nhờ vậy mà đã lôi cuốn mọi tầng lớp xã hội tham gia hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu mà Nhà nước chỉ quản lý
hoạt động này bằng pháp luật.
       

- Đổi mới về cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu.
Nếu như trước năm 88 các mặt hàng xuất khẩu của ta chủ yếu là nông lâm thuỷ hải sản và các loại khoáng sản thô như than
đá, dầu thô, thiếc thỏi... rất rẻ tiền còn các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng và số ít là phương tiện kỹ thuật. Nhưng từ
năm 90 đến nay thì trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu ngoài nông lâm thuỷ hải sản, khoáng sản còn có các mặt hàng tiêu dùng,
hàng dệt may, giày da... và đặc biệt đã có nhiều thiết bị công nghệ, nhiều phụ tùng linh kiện máy móc còn mặt hàng nhập khẩu của
ta chủ yếu là mặt hàng thiết bị công nghệ hiện đại để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa.
       

       + Tuy vậy hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu của nước ta vẫn còn nhiều tồn tại.
. Cán cân xuất nhập khẩu vẫn còn mất cân đối.
. Thị trường xuất nhập khẩu chưa ổn định rất bấp bênh.
. Giá trị mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là những sản phẩm thô rẻ tiền chất lượng thấp.
. Đối tác với thị trường nước ngoài mất ổn định chưa hội nhập vì hoạt động xuất nhập khẩu vẫn còn ảnh hưởng bởi cơ chế
bao cấp.

- Đổi mới về hợp tác đầu tư quốc tế.

      + Hoạt động đầu tư quốc tế trước năm 90 của nước ta chủ yếu chỉ được phát triển với Liên Xô cũ và 1 số nước XHCN Đông
âu cũ nên hiệu quả thấp. Ngày nay hoạt động đầu tư quốc tế không những duy trì thị trường cũ (các nước trong khu vực 1) mà còn
mở rộng thêm các nước thuộc khu vực 2, 3 đặc biệt với các nước tư bản. Cho nên cuối năm 90 (sau 1 năm đổi mới và hoạt động đầu
tư hợp tác) thì có 80% tổng số vốn đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam là của nước ngoài.

      + Tính đến năm 94 nước ta đã ký được khoảng 1 nghìn dự án hợp tác đầu tư quốc tế với tổng số vốn khoảng 10 tỉ đô la,
trong đó có khoảng 600 dự án đang được triển khai. Dự tính 600 dự án này mà được triển khai, thực thi mạnh mẽ sẽ đem lại cho
Việt Nam lợi nhuận hàng ngàn tỉ đồng.

      + Dự tính sau năm 2000 nước ta muốn có tốc độ tăng trưởng kinh tế gấp đôi thời kỳ trước năm 2000 thì cần phải có số vốn
khoảng 40 tỉ USD nhưng trọng đó 1/2 phải là số vốn của nước ngoài. Ta muốn đạt được mục tiêu này phải thực hiện triệt để chính
sách mở cửa và mở rộng hợp tác quốc tế, đồng thời tranh thủ các nguồn viện trợ của các tổ chức vay vốn quốc tế, đó là viện trợ phát
triển chính ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.

Nhờ đường lối đổi mới toàn diện xã hội nên triển vọng của hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng mở rộng và đó là cơ sở tạo ra
nguồn vốn ngoại tệ mạnh phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa nhanh chóng.
Tuy vậy hoạt động đầu tư quốc tế vẫn còn nhiều tồn tại điển hình là hiệu quả đầu tư còn thấp mà hoạt động đầu tư quốc tế
mới chỉ giới hạn trong 1 số lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn nhanh.

- Đổi mới về hợp tác lao động quốc tế.
      + Hoạt động hợp tác lao động quốc tế trước năm 90 phát triển mạnh và với qui mô lớn với các nước Liên Xô cũ và các nước
XHCN Đông Âu nhưng hoạt động này thực chất hiệu quả thấp, gây nhiều tiêu cực và nó đã bị ngưng trệ cùng với sự sụp đổ của
Liên Xô cũ và các nước XHCN Đông Âu.

      +Ngày nay ta đã đổi mới hoạt động này với thị trường xuất khẩu lao động chủ yếu là với các nước Châu á, TBD như Đài
Loan, Hàn Quốc... 1 số nước Châu Phi.

      + Thị trường xuất nhập khẩu lao động nước ta hiện nay có 30 nước khác nhau và đang có xu thế phát triển mạnh hơn nhờ
chính sách mở rộng hợp tác quốc tế. Nhưng hoạt động này vẫn còn nhiều tồn tại lớn vì chất lượng lao động xuất khẩu chưa cao tay
nghề thấp. Hoạt động này đã đem lại nhiều ưu việt trước hết là nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam và cũng góp phần
nâng cao dân trí và tạo ra việc làm cho hàng vạn lao động Việt Nam. Tính đến năm 94 ta có khoảng 2% tổng nguồn lao động là ở
diện xuất khẩu đi nước ngoài.

- Đổi mới về hoạt động du lịch quốc tế.
Trước năm 90 hoạt động du lịch quốc tế hầu như chưa phát triển vì ta chưa thực hiện chính sách mở cửa mà du lịch quốc tế
mới ban đầu được phát triển từ năm 90 (năm du lịch cả nước). Sau năm 90 đến năm 92 ta đã đón được 34 vạn khách quốc tế, 93 đón
được 44 vạn, đến năm 94 ta đón được 1 triệu khách quốc tế.

Du lịch quốc tế ở nước ta còn nhiều khả năng phát triển mạnh vì nước ta có tài nguyên du lịch cả về tự nhiên lẫn văn hóa
lịch sử nhân văn rất đa dạng và hấp dẫn khách quốc tế điển hình về tự nhiên ta có di sản tự nhiên quốc tế và Vịnh Hạ Long, về di
sản văn hóa ta có phố cổ Hội An, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn đặc biệt ta có nền văn hóa VN đậm đà, độc đáo và giàu bản sắc.

      + Tuy vậy hoạt động du lịch quốc tế vẫn còn nhiều tồn tại vì cơ sở VCHT còn nghèo nàn lạc hậu, giá cả chưa hợp lý, đặc
biệt trình độ quản lý tổ chức, hướng dẫn du lịch còn thấp.

- Còn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như thu đổi tiền ngoại tệ, bán hàng lưu niệm bằng tiền nước ngoài... thì cũng
được đổi mới mạnh mẽ cùng với sự đổi mới của các hoạt động kinh tế đối ngoại trên.

28 tháng 1 2016

* Các điều kiện tự nhiên:
- Thuận lợi:
+ Nước ta nằm ở vị trí địa lý thuộc vành đai khí hậu nhiệt đới, bắc bán cầu nên thiên nhiên là thiên nhiên nóng nắng quanh
năm, nước sông biển không đóng băng... cho phép phát triển các loại hình giao thông đường bộ, đường thuỷ quanh năm.

+ Nước ta lại nằm ở phần đông bán đảo Trung ấn lại rất gần đường biển quốc tế (eo biển Malacca) đồng thời cũng nằm trên
giao điểm của những đường hàng không, hàng hải quốc tế từ TBDương sang AĐDương nên rất thuận lợi phát triển giao thông bằng
đường biển quốc tế.

+ Lãnh thổ nước ta phần đất liền nằm trải dài trên 15 vĩ độ theo hướng Bắc - Nam với chiều dài trên 2000km đó là điều kiện
thuận lợi cho phép nhiều loại hình giao thông đường dài như đường hàng không, đường sắt, đường biển...

+ Địa hình nước ta có nhiều thuận lợi với phát triển giao thông đường biển:
. Nước ta có dải đồng bằng nằm dọc ven biển gần như liền 1 dải là địa hình rất thuận lợi cho phép phát triển giao thông
đường ô tô, đường sắt dọc theo tuyến Bắc-Nam.

. Cấu trúc núi, sông của nước ta ở phía Bắc phần lớn theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, ở Miền Trung theo hướng Bắc-Nam,
vì thế rất thuận lợi để phát triển các tuyến đường ô tô từ đồng bằng lên Miền núi, các tuyến dòng sông từ bờ biển vào sâu trong đất
liền.

+ Nước ta có nhiều sông lớn lại dài, lại chảy qua nhiều nước rồi mới về ta nên cho phép phát triển giao thông đường sông rất
thuận lợi cả nội địa lânx quốc tế mà điển hình giao thông đường sống phát triển mạnh nhất là ở ĐBSCL.

+ Nước ta có vùng biển rộng với bờ biển dài 3260km trước hết rất thuận lợi phát triển giao thông đường biển, đồng thời có
nhiều thuận lợi để xây dựng nhiều cảng biển, cảng sông biển với công suất lớn (10 cảng chính) với tổng năng lực vận chuyển 8,5
triệu tấn/năm.
 

- Khó khăn:
+ Thiên nhiên nhiệt đới gió mùa, diễn biến thất thường, khắc nghiệt nhiều thiên tai như lũ lụt, bão, áp thấp nhiệt đới gây
nhiều khó khăn trong cản trở, ách tắc giao thông.

+ Địa hình nước ta nhìn chung rất phức tạp (có 3/4 diện tích đồi núi) nhưng có độ dốc lớn và có nhiều dãy núi đâm ngang ra
biển tạo ra nhiều đèo cao dốc đứng như đèo Cả, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông... và nhiều đèo khác. Vì vậy khi phát triển giao thông
đường bộ theo hướng Bắc-Nam phải chi phí lớn để đào hầm xuyên núi hoặc phải làm đường vượt đèo vừa giảm tốc độ, vừa gây
nguy hiểm cho con người.

+ Lãnh thổ phần đất liền nước ta nhìn chung rất hẹp về bề ngang cho nên rất hạn chế đối với phát triển giao thông theo
hướng Đông-Tây, đặc biệt là đường sắt và đường hàng không...
 

* Các điều kiện kinh tế - xã hội.
+ Vì dân số nước ta đông, nhiều dân tộc và lại cư trú ở mọi vùng lãnh thổ khác nhau. Vì vậy có nhu cầu lớn được đi lại giao
lưu quan hệ, đó là nhân tố kích thích giao thông-thông tin liên lạc phát triển 1 cách đa dạng để đáp ứng cho nhu cầu.

+ Hiện nay ta đã xây dựng được 1 hệ thống cơ sở hạ tầng vềGT-TTLL khá đầy đủ và hoàn chỉnh đó là mạng lưới các tuyến
giao thông đã toả đi khắp các vùng của cả nước, lại có phương tiện kỹ thuật ngày càng được nâng cấp hiện đại cho nên là cơ sở hạ
tầng rất thuận lợi để tiếp tục nâng cấp và hiện đại hóa giao thông thông tin.

+ Nhờ sự quan tâm và đường lối đúng đắn của Đảng với vấn đề phát triển giao thông thông tin trong sự nghiệp công nghiệp
hóa nhờ đó mà thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài và đang từng bước hiện đại hóa ngành giao thông thông tin liên lạc
nước ta.
 

- Khó khăn:
+ Về trình độ quản lý điều khiển giao thông của nguồn lao động nước ta còn thấp nên làm giảm tốc độ tăng trưởng của
ngành.

+ Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng của ngành giao thông thông tin liên lạc nhìn chung vẫn còn là một khâu yếu và phương
tiện kỹ thuật già cỗi cũ kỹ cho nên ngành giao thông thông tin liên lạc thật sự chưa đáp ứng nổi cho nhu cầu công nghiệp hóa.

+ Ta đổi mới chậm, thực hiện chính sách mở cửa chậm cũng là nhân tố làm giảm tốc độ của ngành giao thông thông tin liên
lạc.
 

28 tháng 1 2016

* Những tuyến giao thông quan trọng theo hướng Bắc-Nam là:
- Quốc lộ 1A (từ Lạng Sơn - Cà Mau) ngoài ra còn có quốc lộ 14, 15.

- Các tuyến đường sắt Bắc-Nam chủ yếu đường sắt Thống Nhất và có thể kể thêm 2 tuyến Hà Nội - Lào Cai; Hà Nội - Thái
Nguyên.

- Các tuyến đường biển Bắc - Nam điển hình chỉ có các tuyến đường biển nội địa, là các tuyến xuất phát từ các cảng Hải
Phòng, Quảng Ninh đi các cảng phía Nam và ngược lại.

- Các tuyến đường hàng không hầu hết là đều là các tuyến Bắc-Nam vì đều xuất phát từ Nội Bài đi Đà Nẵng và Tân Sơn
Nhất.
 

* Những cơ sở hình thành và các chức năng của các tuyến này thể hiện như sau:
- Đối với tuyến quốc lộ 1A và đường sắt Thống Nhất được coi là 2 tuyến giao thông Bắc - Nam quan trọng nhất vì những cơ
sở sau:
           + 2 tuyến giao thông này có lịch sử phát triển lâu đời nhất trong đó quốc lộ 1A đã hình thành từ nhiều thế kỷ nay và trước
kia được coi là đường "thiên lý mã", trong thời kỳ Pháp thuộc, nó đã được coi là đường quốc lộ xuyên Việt, xuyên Đông Dương;
còn đường sắt Thống Nhất thì đã được xây dựng từ năm 35-36, mặc dù nó đã nhiều lần bị giặc phá hoại nhưng ngày nay nó đã trở
thành đường sắt xuyên Đông Dương và Đông Nam á.
          + 2 tuyến giao thông này chạy như gần song song với nhau, đồng thời được coi là những tuyến dài nhất và xuyên qua hầu
hết các trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa và những vùng kinh tế cả nước. Vì vậy 2 tuyến giao thông này có tính liên vùng mạnh
mẽ vì thế mà nó có khả năng tạo ra mối lưu thông rất thuận lợi giữa 3 miền Bắc - Trung - Nam.
         + 2 tuyến này được coi như là động mạch chủ, huyết mạch giao thông quan trọng nhất của hệ thần kinh các mối lưu thông
phân phối của cả nước. Vì thể mà 2 tuyến giao thông này đảm nhận 1 vai trò vô cùng quan trọng là luôn luôn phải đảm bảo sự thông
suốt.
        + 2 tuyến giao thông này không những là động mạch chủ của các mối lưu thông phân phối mà nó còn được coi là xương
sống của mạng lưới giao thông hình xương cá của cả nước. Chính vì thế mà trên tuyến này xuất hiện nhiều đầu mối, nhiều nút giao
thông quan trọng như Hà Nội, TPHCM.
       + Trên cơ sở hình thành nêu trên mà 2 tuyến giao thông này đảm nhận nhiều chức năng quan trọng.

. Chức năng kinh tế là vận chuyển, luân chuyển hàng hóa hành khách lưu thông giữa 3 vùng Bắc-Trung-Nam.

. Chức năng văn hóa, xã hội: nhờ 2 tuyến này mà các dân tộc Việt Nam có thể giao lưu thuận lợi với nhau tiếp thu được
những tinh hoa, văn minh của nhau. Đồng thời cũng nhờ 2 tuyến này mà nhân dân ta ở mọi miền đất nước có thể tiếp thu được
những tinh hoa, văn hóa của cả thế giới.

. Chức năng quốc phòng: nhờ 2 tuyến này mà Nhà nước ta có thể "điều binh, khiến tướng" thuận lợi cho cuộc kháng chiến,
bảo vệ đất nước.

- Quốc lộ 14 (Thừa Thiên Huế - KonTum -Plâycu - Buônmêthuột - ĐNB) cắt với đường 13, dài hơn 600km và được coi là
tuyến giao thông có tính chất hành lang biên giới phía Tây của Tổ quốc giữa ta với Lào, Campuchia. Vì thế nó có vai trò to lớn về
mặt kinh tế và quốc phòng.
        + Về kinh tế: quốc lộ 14 chạy xuyên qua các tỉnh Tây Nguyên nhưng lại được nối với các quốc lộ theo hướng đông tây như
19, 21 cho nên nó có vai trò tạo ra mối lưu thông rất thuận lợi giữa Tây Nguyên với Duyên Hải NTB. Vì thế hướng vận chuyển
hàng từ Tây Nguyên xuống NTB là cà phê, cso su, chè búp, gỗ lâm sản còn hướng đi lên Tây Nguyên là thực phẩm từ biển, thiết bị
máy móc và nguồn lao động.
       + Chức năng văn hóa - xã hội: quốc lộ 14 tạo cơ hội cho các dân tộc xích lại gần nhau, nhờ đó mà người Tây Nguyên tiếp
thu được những kinh nghiệm sản xuất quí báu của dân tộc Kinh, ngày nay họ đã cùng với người Kinh thi đua xây dựng Tây Nguyên
vững mạnh.
      + Chức năng quốc phòng: nhờ quốc lộ 14 là tuyến chạy // với đường biên giới Việt Lào CPC cho nên tuyến này có chức
năng bảo vệ an ninh vùng biên giới phía Tây của Tổ quốc.

- Quốc lộ 15 (Tân Kỳ chạy dọc theo Trường sơn Đông vào đến Thừa Thiên Huế). Tuyến này được coi là trục chính của hệ
thống đường mòn HCM. Tuyến này được hình thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cho nên nó có chức năng chủ yếu là vận
chuyển bộ đội và các thiết bị quân sự từ hậu phương lớn Miền bắc vào tiền tuyến lớn Miền nam. Quốc lộ 15 ngày nay đang dược
Nhà nước đầu tư, nâng cấp hiện đại hóa thành đường Trường Sơn, công nghiệp hóa từ Hòa Lạc vào đến tận ĐNB chay dọc theo
Trường Sơn.

- Đối với đường biển theo hướng Bắc-Nam chủ yếu là đường biển nội địa xuất phát từ cảng Hải Phòng-Quảng Ninh đi các
cảng phía Nam và ngược lại. Đường biển Bắc-Nam đã được hình thành ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ với chức năng
vận chuyển vũ khí từ Miền Bắc vào Miền nam. Ngày nay đường biển B-N với chức năng chính là vận chuyển từ phía Bắc vào là
các loại khoáng sản như than đa, sắt, apatit..., theo hướng từ Nam ra chủ yếu là thực phẩm từ biển mà điển hình là mắm, tôm, cá
đông lạnh.

- Các tuyến đường hàng không N-B chủ yếu là xuất phát từ Nội Bài đi Tân Sơn Nhất và ngược lại với chức năng chính là
vận chuyển cán bộ, bộ đội, khách du lịch, lưu thông giữa 3 vùng Bắc-Trung-Nam.