

Vũ Trí Dũng
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1:
Lối sống chủ động là yếu tố quan trọng giúp mỗi cá nhân thành công và hạnh phúc trong cuộc sống hiện đại. Lối sống chủ động là lối sống tự làm chủ cuộc sống, không phụ thuộc vào người khác. Trong thế giới đầy biến động ngày nay, nếu chỉ sống thụ động, chỉ biết chờ đợi cơ hội hay đợi người khác quyết định cho mình, chúng ta sẽ dễ dàng bị tụt lại phía sau. Lối sống chủ động giúp ta nhận thức rõ ràng mục tiêu, từ đó chủ động trong việc hoàn thành kế hoạch. Người sống chủ động không tự mình giải quyết vấn đề mà còn biết chớp lấy cơ hội, không ngại thử thách và sáng tạo. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh xã hội hiện đại, nơi mà sự đổi mới và sáng tạo luôn được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa, chủ động trong cuộc sống giúp chúng ta làm chủ được cảm xúc, duy trì được thái độ tích cực, kiên định trước khó khăn. Lối sống chủ động còn giúp ta duy trì sức khỏe tinh thần và sự hạnh phúc trong cuộc sống vì ta luôn là người tự tạo ra cơ hội cho chính mình.
Câu 2:
Văn bản trên là những dòng thơ đầy chất nhạc, gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống nông thôn, đồng thời phản ánh một niềm hy vọng về một tương lai giàu có, no đủ. Những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp như "hoè lục đùn đùn tán rợp trương", "thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" hay "hồng liên trì đã tịn mùi hương" thể hiện sự sống sinh sôi, trù phú của đất đai. Chợ cá lao xao, tiếng cầm ve dội lại trong không gian tĩnh mịch buổi chiều, tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống làng quê. Qua đó, tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng gửi gắm một niềm tin vào sự phồn thịnh của đất nước, sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, đồng thời bày tỏ niềm hy vọng vào sự no ấm, đủ đầy cho mọi người. Câu cuối "Dân giàu đủ khắp đòi phương" thể hiện lý tưởng cao đẹp của tác giả về một xã hội thịnh vượng, nơi mọi người đều được hưởng lợi từ thành quả lao động chung. Bài thơ là những dòng chảy cảm xúc về thiên nhiên cũng như nỗi khát khao mong mỏi và tấm lòng yêu nước nồng nhiệt của Nguyễn Trãi. Bài thơ tuy ngắn nhưng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh. Kết thúc bài thơ là tinh thần nhân nghĩa cao cả và tình yêu nhân dân vô bờ bến của ông.
Câu 1: Thể thơ của văn bản trên là thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2: Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hằng ngày của tác giả: một mai, một cuốc, một cần câu, ăn măng trúc, ăn giá, tắm hồ sen, tắm ao, uống, nhìn xem phú quý.
Câu 3: Biện pháp tu từ liệt kê:''Một mai, một cuốc, một cần câu''
Biện pháp liệt kê giúp tạo ra một chuỗi hình ảnh đơn sơ, giản dị, phản ánh cuộc sống của tác giả. "Một mai, một cuốc, một cần câu" là những dụng cụ lao động đơn giản nhưng đầy đủ, thể hiện sự thanh thoát, không có tham vọng vật chất. Liệt kê làm nổi bật vẻ đẹp của sự tự tại, tự do, không bị ràng buộc bởi xã hội. Ngoài ra, liệt kê còn giúp câu thơ trở nên sinh động, biểu cảm.
Câu 4: Quan niệm này thể hiện sự phản kháng lại giá trị vật chất, quyền lực và sự ganh đua trong xã hội. Tác giả coi việc tìm đến nơi vắng vẻ, nơi thanh tịnh, là hành động của người "dại" theo cách nhìn của xã hội, nhưng thực ra là người tìm được sự bình an, thanh thản trong tâm hồn, còn người "khôn" lại bị cuốn vào những mối quan hệ và xô bồ của đời sống vật chất.
Câu 5: Từ văn bản trên, ta có thể cảm nhận vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua lối sống giản dị, thanh cao và tự tại. Ông không chạy theo phú quý, danh vọng mà chọn cách sống gần gũi với thiên nhiên, tìm về sự tĩnh lặng để nuôi dưỡng tâm hồn. Những hình ảnh như “một mai, một cuốc, một cần câu” hay “thu ăn măng trúc, đông ăn giá” phản ánh một đời sống không vướng bận, không cầu kỳ, nhưng đầy đủ và thanh thản. Quan niệm về "dại" và "khôn" của ông cũng cho thấy sự sáng suốt trong việc lựa chọn hạnh phúc từ những điều giản đơn, không bị cuốn vào vòng xoáy vật chất và xô bồ của xã hội.