

Nguyễn Thanh Trúc
Giới thiệu về bản thân



































Bài làm Đất nước có được nền hòa bình ngày hôm nay, không biết bao cha anh đã ngã xuống, không tiếc máu xương để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Trong đó để nói về người anh hùng mà em ngưỡng mộ nhất chính là vị tướng Ngô Quyền (về sau lên ngôi vua) người đã lãnh đạo nhân dân ta dành chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938. Ngô Quyền (897-944) là người ở Đường Lâm Sơn Tây Hà Nội, ông là một người anh hùng tuấn tú, văn võ song toàn và có tài có chí mưu lược. Tục truyền rằng Ngô Quyền khi mới được sinh ra, trong nhà xuất hiện một thứ ánh sáng mờ ảo lạ kì, lại có dung mạo khác thường và có 3 nốt ruồi trên lưng nên thầy tướng cho rằng khi Ngô Quyền lớn lên ông có thể làm chủ một phương, nên đặt tên ông là Quyền. Ngô Quyền lớn lên trông khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ và có trí dũng hơn người. Với sự giáo dục từ cha, Ngô Quyền đã sớm trở thành một chuyên gia về võ nghệ và sử dụng được những vũ khí như gươm giáo và binh pháp. Sau đó, vào năm 938, khi quân Nam Hán quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, chính ông đã lãnh đạo quân ta chống lại giặc ngoại xâm. Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ để đoạt chức Tiết độ sứ. Khi hay tin đó, Ngô Quyền liền kéo quân ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn để bảo vệ nền độc lập tự chủ vừa mới xây dựng. Kiều Công Tiễn hoảng sợ vội cho người cầu cứu nhà Nam Hán. Khi đó, nhà Nam Hán vốn đã nuôi sẵn ý đồ xâm lược nước ta và trả thù cho thất bại trong cuộc xâm lược nước ta lần thứ nhất, nhân cớ cầu cứu của Kiều Công Tiễn, vua Nam Hán cho quân xâm lược nước ta lần hai. Để giết tên phản bội Kiều Công Tiễn Ngô Quyền tập hợp lực lượng từ châu Ái ra châu Giao và giữa lúc đất nước đang trong tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc, Ngô Quyền trở thành nhân vật có sức mạnh, thu hút được nhiều lực lượng cùng tham gia, trong đó có Kiều Công Hãn-cháu của Kiều Công Tiễn. Sau khi đánh bại được nội phản, Ngô Quyền họp các tướng để bàn kế sách. Với tài năng thao lược vượt trội, Ngô Quyền được xem là người chỉ huy thông minh nhất. Trước cuộc xâm lược của nhà Hán, Ngô Quyền không những không tỏ ra sợ hãi trước lực lượng hùng hậu của quân Nam Hán mà còn tìm hiểu rõ quy luật lên xuống của thuỷ chiều trên sông Bạch Đằng. Sông này rộng hơn hai dặm, có nhiều nhánh sông đổ lại, với sóng cồn man mác giáp tận chân trời và cây cối um tùm che lấp bờ bến. Do vị trí địa lý, thủy triều rất ảnh hưởng đến mực nước của sông, khiến lòng sông rộng lại càng sâu hơn thuỷ triều xuống. Nhờ tài chí mưu lược của mình, Ngô Quyền đã đưa ra kế hoạch củng cố phòng thủ của mình bằng cách đóng các cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt. Thuyền của địch khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ nghĩa quân sẽ dễ dàng chế ngự địch. Với sự ủng hộ của nghĩa quân, Ngô Quyền cho lên rừng đẵn những cây gỗ lim vót thành cọc và đầu bịt sắt, sau đó cho lên thuyền và đóng xuống lòng sông và dọc theo hai bờ sông Bạch Đằng để cản sức tiến công của địch. Đến ngày xuất trận, hơn hai vạn tinh binh cầm đầu bởi Hoằng Tháo đã đến đất nước Vạn Xuân một cách vênh váo, hung hãn theo đường thủy sông Bạch Đằng. Khi đó, quân ta đã cho thuyền nhỏ bơi ra lòng sông để nhử giặc vào bãi cọc. Trong khi đó, đội quân Hoằng Tháo đã hăm hở đuổi theo vào một bãi cọc ngầm mà không hề hay biết. Nhưng khi thủy triều đến và nước rút nhanh thì những chiếc thuyền địch đã bị mắc kẹt. Nhân cơ hội này, nghĩa quân Việt đã mai phục hai bên bờ để tấn công quân địch. Để đánh trực diện, một đội quân thủy mạnh đã được lên kế hoạch đi trên những chiếc thuyền nhỏ. Kế sách này làm đến đội quân hùng mạnh nhà Nam Hán rơi vào thế bí, Hoằng Tháo bị một mũi tên bắn trúng vào ngực và tử trận, cùng với hơn 20.000 quân bị tổn hại, dòng sông Bạch Đằng ấy lúc bấy giờ đã nhuốm một màu đỏ thắm của máu địch. Nhuệ khí của nghĩa quân được lãnh đạo bởi Ngô Quyền mạnh tới mức, quân địch đang đóng sát biên giới cũng không dám tiếp ứng. Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm, chỉ còn cách khóc thương con và cố gắng thu nhặt tàn quân trở về nước. Tuy nhiên, Vua Nam Hán không thể chấp nhận được thất bại và đã đổ toàn bộ tội lỗi này cho trước tước tá lang Hầu Dung với tội danh “Không làm cho tinh thần quân phấn chấn”. Sau chiến thắng đó, Ngô Quyền xưng vương và mở ra một thời trung hưng rực rỡ cho dân tộc. Trong sử sách, các chuyên gia sử học đã ưu ái gọi ông là “vua của các vị vua”. Chiến Thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 đã chấm dứt hơn một nghìn năm bắc thuộc của đất nước ta dưới các triều đại phong kiến phương bắc để mở ra một thời kỳ độc lập tự do tự chủ cho nước nhà. Dù đã trôi qua hơn 1000 năm, trận Bạch Đằng lưu danh sử sách và tiếng tăm của vị vua tài ba, sách lược vẫn là đồng thời là biểu tượng sáng ngời cho ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong suốt dòng lịch sử. Nó cũng là động lực quan trọng để khơi dậy đánh thức tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc, để xây dựng đất nước hưng thịnh trong thời kỳ hội nhập. Có thể nói, chiến thắng trên sông Bạch Đằng mà Ngô Quyền lãnh đạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng với đất nước ta. Muôn đời về sau, nhân dân vẫn kính trọng và tự hào vô cùng về người anh hùng Ngô Quyền mưu trí, dũng cảm hơn người. Em hy vọng sẽ có một ngày được đến thăm trận địa cọc ngầm trên sông Bạch Đằng để thấy được những chứng tích hào hùng cho tinh thần bất khuất, quật cường của quân ta.
Bài làm Đất nước có được nền hòa bình ngày hôm nay, không biết bao cha anh đã ngã xuống, không tiếc máu xương để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Trong đó để nói về người anh hùng mà em ngưỡng mộ nhất chính là vị tướng Ngô Quyền (về sau lên ngôi vua) người đã lãnh đạo nhân dân ta dành chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938. Ngô Quyền (897-944) là người ở Đường Lâm Sơn Tây Hà Nội, ông là một người anh hùng tuấn tú, văn võ song toàn và có tài có chí mưu lược. Tục truyền rằng Ngô Quyền khi mới được sinh ra, trong nhà xuất hiện một thứ ánh sáng mờ ảo lạ kì, lại có dung mạo khác thường và có 3 nốt ruồi trên lưng nên thầy tướng cho rằng khi Ngô Quyền lớn lên ông có thể làm chủ một phương, nên đặt tên ông là Quyền. Ngô Quyền lớn lên trông khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ và có trí dũng hơn người. Với sự giáo dục từ cha, Ngô Quyền đã sớm trở thành một chuyên gia về võ nghệ và sử dụng được những vũ khí như gươm giáo và binh pháp. Sau đó, vào năm 938, khi quân Nam Hán quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, chính ông đã lãnh đạo quân ta chống lại giặc ngoại xâm. Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ để đoạt chức Tiết độ sứ. Khi hay tin đó, Ngô Quyền liền kéo quân ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn để bảo vệ nền độc lập tự chủ vừa mới xây dựng. Kiều Công Tiễn hoảng sợ vội cho người cầu cứu nhà Nam Hán. Khi đó, nhà Nam Hán vốn đã nuôi sẵn ý đồ xâm lược nước ta và trả thù cho thất bại trong cuộc xâm lược nước ta lần thứ nhất, nhân cớ cầu cứu của Kiều Công Tiễn, vua Nam Hán cho quân xâm lược nước ta lần hai. Để giết tên phản bội Kiều Công Tiễn Ngô Quyền tập hợp lực lượng từ châu Ái ra châu Giao và giữa lúc đất nước đang trong tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc, Ngô Quyền trở thành nhân vật có sức mạnh, thu hút được nhiều lực lượng cùng tham gia, trong đó có Kiều Công Hãn-cháu của Kiều Công Tiễn. Sau khi đánh bại được nội phản, Ngô Quyền họp các tướng để bàn kế sách. Với tài năng thao lược vượt trội, Ngô Quyền được xem là người chỉ huy thông minh nhất. Trước cuộc xâm lược của nhà Hán, Ngô Quyền không những không tỏ ra sợ hãi trước lực lượng hùng hậu của quân Nam Hán mà còn tìm hiểu rõ quy luật lên xuống của thuỷ chiều trên sông Bạch Đằng. Sông này rộng hơn hai dặm, có nhiều nhánh sông đổ lại, với sóng cồn man mác giáp tận chân trời và cây cối um tùm che lấp bờ bến. Do vị trí địa lý, thủy triều rất ảnh hưởng đến mực nước của sông, khiến lòng sông rộng lại càng sâu hơn thuỷ triều xuống. Nhờ tài chí mưu lược của mình, Ngô Quyền đã đưa ra kế hoạch củng cố phòng thủ của mình bằng cách đóng các cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt. Thuyền của địch khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ nghĩa quân sẽ dễ dàng chế ngự địch. Với sự ủng hộ của nghĩa quân, Ngô Quyền cho lên rừng đẵn những cây gỗ lim vót thành cọc và đầu bịt sắt, sau đó cho lên thuyền và đóng xuống lòng sông và dọc theo hai bờ sông Bạch Đằng để cản sức tiến công của địch. Đến ngày xuất trận, hơn hai vạn tinh binh cầm đầu bởi Hoằng Tháo đã đến đất nước Vạn Xuân một cách vênh váo, hung hãn theo đường thủy sông Bạch Đằng. Khi đó, quân ta đã cho thuyền nhỏ bơi ra lòng sông để nhử giặc vào bãi cọc. Trong khi đó, đội quân Hoằng Tháo đã hăm hở đuổi theo vào một bãi cọc ngầm mà không hề hay biết. Nhưng khi thủy triều đến và nước rút nhanh thì những chiếc thuyền địch đã bị mắc kẹt. Nhân cơ hội này, nghĩa quân Việt đã mai phục hai bên bờ để tấn công quân địch. Để đánh trực diện, một đội quân thủy mạnh đã được lên kế hoạch đi trên những chiếc thuyền nhỏ. Kế sách này làm đến đội quân hùng mạnh nhà Nam Hán rơi vào thế bí, Hoằng Tháo bị một mũi tên bắn trúng vào ngực và tử trận, cùng với hơn 20.000 quân bị tổn hại, dòng sông Bạch Đằng ấy lúc bấy giờ đã nhuốm một màu đỏ thắm của máu địch. Nhuệ khí của nghĩa quân được lãnh đạo bởi Ngô Quyền mạnh tới mức, quân địch đang đóng sát biên giới cũng không dám tiếp ứng. Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm, chỉ còn cách khóc thương con và cố gắng thu nhặt tàn quân trở về nước. Tuy nhiên, Vua Nam Hán không thể chấp nhận được thất bại và đã đổ toàn bộ tội lỗi này cho trước tước tá lang Hầu Dung với tội danh “Không làm cho tinh thần quân phấn chấn”. Sau chiến thắng đó, Ngô Quyền xưng vương và mở ra một thời trung hưng rực rỡ cho dân tộc. Trong sử sách, các chuyên gia sử học đã ưu ái gọi ông là “vua của các vị vua”. Chiến Thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 đã chấm dứt hơn một nghìn năm bắc thuộc của đất nước ta dưới các triều đại phong kiến phương bắc để mở ra một thời kỳ độc lập tự do tự chủ cho nước nhà. Dù đã trôi qua hơn 1000 năm, trận Bạch Đằng lưu danh sử sách và tiếng tăm của vị vua tài ba, sách lược vẫn là đồng thời là biểu tượng sáng ngời cho ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong suốt dòng lịch sử. Nó cũng là động lực quan trọng để khơi dậy đánh thức tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc, để xây dựng đất nước hưng thịnh trong thời kỳ hội nhập. Có thể nói, chiến thắng trên sông Bạch Đằng mà Ngô Quyền lãnh đạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng với đất nước ta. Muôn đời về sau, nhân dân vẫn kính trọng và tự hào vô cùng về người anh hùng Ngô Quyền mưu trí, dũng cảm hơn người. Em hy vọng sẽ có một ngày được đến thăm trận địa cọc ngầm trên sông Bạch Đằng để thấy được những chứng tích hào hùng cho tinh thần bất khuất, quật cường của quân ta.
Vấn đề được gợi ra là làm sao để xây dựng nhà thờ trên Sao Hoả, khám phá Sao Hoả.
Trong đó vấn đề khám phá Sao Hoả đã được Mỹ thực hiện trong năm 2022.
Trong văn bản, Đức Cha Peregrine là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng em bởi sự kiên định và lòng trắc ẩn. Ngay từ đầu, ông đã thể hiện một quyết tâm mạnh mẽ khi quyết định đến với những quả cầu lửa xanh trên Hỏa Tinh, mặc cho những lo ngại và can ngăn từ người khác. Ông không ngại khó khăn, luôn tìm kiếm những con đường chưa ai đi, giống như lời ông nói: "Hãy chỉ cho ta con đường cỏ dại, gai góc. Chính ta phải tự mở lối mà đi". Đức Cha tin rằng mọi sinh vật, dù khác biệt đến đâu, đều có linh hồn và xứng đáng được yêu thương, cứu rỗi. Sự nhạy cảm và lòng trắc ẩn này khiến ông trở thành một hình tượng đầy cảm hứng, một người luôn sẵn lòng vượt qua mọi rào cản để kết nối và giúp đỡ những người xung quanh.