Nguyễn Sophie Elizabeth

Giới thiệu về bản thân

thích ca nhạc, đọc sách , (đánh nhau), làm MC và ca sĩ nhí của trường.
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

 Thế Lữ với tâm hồn dạt dào cảm xúc cùng với khả năng sử dụng ngôn từ tài tình ông đã có những đóng góp lớn trong phong trào thơ mới. Trong đó tiêu biểu là bài thơ Nhớ rừng. Tên tuổi của ông được gắn liền với bài thơ Nhớ rừng. Ông mượn hình ảnh con hổ bị giam cầm để nói về cuộc sống khao khát tự do của mình. Qua đó thể hiện thái độ phủ nhận thực tại làm nô lệ, khát vọng tự do và lòng yêu nước thầm kín của dân tộc.

     Nhớ rừng được Thế Lữ viết theo thể thơ tám chữ, vần liền, vần bằng, vần trắc thay đổi nhịp uyên chuyển. Mở đầu bài thơ là cảnh ngộ con hổ bị giam giữ trong lòng đây là nguyên nhân tâm trạng chất chứa bao bi kịch của con hổ:

"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,

................................

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự."

     Hổ là một loài sống quen trong rừng núi hoang dã đồng thời được mệnh danh là chúa sơn lâm vậy mà nay bị giam giữ trong lồng còn làm trò cho lạ mắt , thứ đồ chơi nên con hổ rất u uất và căm phẫn. Nó không cam chịu trước hoàn cảnh bởi nó luôn ý thức mình là chúa sơn lâm nên nơi ở của nó không phải ở đây mà thuộc về núi rừng hoang dã. Nếu nó cam chịu sống trong cảnh tù túng thì chắc hẳn nó không phải là nó nữa. Tâm trạng u uất, bất bình, giằng xé dữ dội trong tâm con hổ bị cầm tù và cảm xúc này đã bao trùm toàn bài thơ.

     Đoạn thơ đã hiện nên nỗi khổ tâm của một vị chúa sơn lâm bị cầm tù sống trong khung cảnh ngột ngạt. Trong đoạn thơ này những thanh trắc kết hợp với nhịp thơ chậm càng nhấn mạnh nỗi căm phấn của con hổ đang bị giam cầm. Nhưng nó thật bất lực bởi con người giam cầm nó thật chắc chắn nó đành nằm thở dài và chông ngày tháng đang dần trôi qua.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Rất nhiều mẩu chuyện kể về cuộc đời của Người. Qua đó, chúng ta thấy được những đức tính tốt đẹp của người.

Vào giữa mùa thu năm 1954, Bác đến tham dự “Hội nghị rút kinh nghiệm cải cách ruộng đất” ở Hà Bắc. Tại hội nghị, khi biết có lệnh của Trung ương rút bớt một số cán bộ đi học lớp tiếp quản thủ đô. Ai cũng háo hức muốn đi, đặc biệt là những người quê ở Hà Nội. Sau nhiều năm xa cách quê hương, mọi người đều mong muốn được cấp trên chiếu cố. Tư tưởng cán bộ dự hội nghị có nhiều phân tán. Ban lãnh đạo ít nhiều thấy khó xử.

Trời đã vào thu nhưng vẫn còn khá nóng, mồ hôi ướt đẫm hai bên vai áo nâu của Bác. Mở đầu, Bác trò chuyện về tình hình thời sự. Khi nói đến nhiệm vụ của toàn Đảng, Bác bỗng rút trong túi áo giơ ra một chiếc đồng hồ quả quýt. Rồi Bác hỏi các đồng chí cán bộ về chức năng của từng bộ phận của đồng hồ. Thế rồi, Bác mới hỏi:

- Trong cái đồng hồ, bộ phận nào là quan trọng?

Mọi người đều im lặng, không ai trả lời:

- Trong cái đồng hồ, bỏ một bộ phận đi có được không?

- Thưa, không được ạ!- Các cán bộ lại đồng thanh đáp.

Nghe mọi người trả lời, Bác bèn giơ cao chiếc đồng hồ lên và kết luận:

- Các chú ạ, các bộ phận của một chiếc đồng hồ cũng ví như các cơ quan của một Nhà nước, như các nhiệm vụ của cách mạng. Đã là nhiệm vụ của cách mạng thì đều là quan trọng, điều cần phải làm. Các chú thử nghĩ xem: Trong một chiếc đồng hồ mà anh kim đòi làm anh chữ số, anh máy lại đòi ra ngoài làm cái mặt đồng hồ… cứ tranh nhau chỗ đứng như thế thì còn là cái đồng hồ được không?

Nghe xong, cả hội trường trở nên im lặng. Mỗi người đều có những suy nghĩ riêng về lời nói của Bác.

Vào một dịp cuối năm 1954, Bác đến thăm một đơn vị pháo binh đóng ở Bạch Mai đang luyện tập để chuẩn bị cho cuộc duyệt binh đón mừng chiến thắng Điện Biên Phủ. Thăm nơi ăn, chốn ngủ của các chiến sĩ bộ đội xong, Bác đã đã trò chuyện với họ. Bác lấy ở túi ra một chiếc đồng hồ quả quýt, chỉ vào từng chiếc kim, từng chữ số và hỏi anh em về tác dụng của từng bộ phận. Mọi người đều trả lời đúng cả. Song chưa ai hiểu tại sao Bác lại nói như vậy?

Bác vui vẻ nói tiếp:

- Đã bao nhiêu năm nay, chiếc kim đồng hồ vẫn chạy để chỉ cho ta biết giờ giấc, chữ số trên mặt vẫn đứng yên một chỗ, bộ máy vẫn hoạt động đều đặn bên trong. Tất cả đều nhịp nhàng làm việc theo sự phân công ấy. Nếu hoán đổi vị trí từng bộ phận cho nhau thì có còn là chiếc đồng hồ nữa không? Sau câu chuyện của Bác, anh chị em đều hiểu ý Bác dạy: Việc gì cách mạng phân công phải yên tâm hoàn thành.

Không chỉ vậy, chiếc đồng hồ quả quýt còn là một hiện vật vô giá thể hiện tình cảm Quốc tế đối với Bác, đó là chiếc đồng hồ do Tổ chức Quốc tế “Cứu Tế đỏ” tặng, Bác luôn giữ nó trong mình, trong những năm tháng bị cầm tù gian khổ cho đến ngày Việt Nam giành được độc lập.

Câu chuyện về chiếc đồng hồ đã cho thấy được những phẩm chất đẹp đẽ của Bác Hồ, cũng như bài học sâu sắc mà bác muốn dạy cán bộ, chiến sĩ của mình.

1=000000000000000000000000000000000000000000000000+1

vô cùng hữu ích luôn

không bạn ạ. skibidi toilet chỉ là một kĩ xảo điện ảnh thôi nhé. đừng dại mà chui vô bồn cầu làm skibidi. nhớ nhé

Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, Người là ánh sáng, là con đường của những thế hệ con cháu noi theo gương của Bác. Người là một tấm gương của việc tự rèn luyện bản thân để làm những việc quan trọng với những đức tính đáng quý. Tất cả những đức tính mà Người có đều do Người tự học tập lấy mà không hề nhờ có ai nhắc nhở. Và trong những đức tính đáng quý của Người thì có lẽ đức tính giản dị và thanh bạch là hai đức tính quan trọng và đáng quý nhất của Người.

   Nhắc tới Bác - một vị lãnh tụ, người đứng đầu cả một đất nước nhưng chưa bao giờ Bác Hồ chi tiêu một cách hoang phí. Bởi lí do thật đơn giản, Người thương những người con, người cháu luôn vất vả lao động hay những người chiến sĩ phải chịu nằm gai nếm mật mong bảo vệ sự bình yên của Tổ quốc. Bởi thế mà hình ảnh của Người mỗi khi đi thăm đồng bào hay đi ra ngoài chỉ là hình ảnh một ông cụ có chòm râu bạc cùng đôi mắt sáng, trên người mặc bộ quần áo vải nâu sòng, chân đi đôi dép cao su mà thôi. Hình ảnh của Bác, con người của Bác sao thật giản dị và gần gũi tới nhường nào!

tick cho mình, làm ơn....

Mẫu 2:

“Ơi Bắc Ninh, ơi sông Cầu, một đời tôi chấp niệm”, đời người ai mà không gắn bó với một con sông quê hương, quanh năm nước đầy ắp như tình mẹ bao la, như tình cha ấm áp. Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất quan họ, tuổi thơ tôi gắn bó với con Sông Cầu, là nơi mẹ giặt áo, nơi cha hút nước tưới vườn cây, nơi tôi tìm đến mỗi buổi chiều tan học. Chế Lan Viên viết về sông cầu sao sao mà gần gũi:
“Trưa sông Cầu
Bể một màu xanh thắm
Ruộng nghìn ô muối trắng
Biếc trời xanh ngang đầu”

Sông Cầu là một trong năm con sông dài nhất miền bắc, chảy qua năm tỉnh. Dòng sông Cầu ở Bắc Ninh với tôi mang một hơi thở lạ thường, nhìn từ trên cao, sông như một dải lụa mềm mại quàng lên mảnh đất thân thương gần gũi, nước sông chảy hiền hòa êm dịu, mỗi làn gió thổi qua lại gợn lên như muốn bày tỏ điều gì. Trước hồi nhỏ, tôi hay trốn mẹ cùng lũ bạn mang phao ra bơi đoạn gần bờ, cảm giác nước sông vỗ vào da thịt, quấn lấy chúng tôi như người mẹ quê hương ôm lấy những đứa con vào lòng. Bây giờ, mẹ không cho tôi ra bơi nữa vì sợ nguy hiểm, nước sông cầu bao giờ cũng đầy ắp và mang một dáng vẻ lạ thường, dáng vẻ của một dòng sông Cầu dành riêng cho xứ Bắc Ninh.
Sông Cầu được gọi với nhiều cái tên: sông Như Nguyệt, sông Thị Cầu, sông Nguyệt Đức. Cái tên nào cũng thân thương và mang đầy tình cảm chân thành. Người ta đến sông Cầu, nhìn những dấu tích để lại mà nhớ về những năm 1077, hai cuộc kháng chiến Như Nguyệt I và Như Nguyệt II chiến thắng, kết thúc chiến tranh, quả thực “ngàn năm đâu dễ mấy ai quên”. Tôi yêu những đêm du thuyền trên sông Cầu, yên ả và thanh bình, nhẹ nhàng hương vị quê hương, tôi thích gọi sông Cầu với cái tên gần gũi gắn liền với xứ mẹ: con sông quan họ. Đêm sông Cầu, người ta bơi thuyền ra ca những khúc quan họ thắm đượm tình người, lời quan họ đặc trưng xứ sở, sông Cầu lúc đó càng vừa mang vẻ tĩnh lặng lạ thường cũng lại vừa trở nên náo nhiệt. Ánh đèn hoa sen màng vàng sáng rực lòng sông, lấp lánh, huyền ảo và trữ tình. Ai đến Bắc Ninh, đến sông Cầu mà chưa thưởng thức bánh phu thê thì dường như hoài phí cả một chuyến hành trình, mỗi buổi cuối tuần, tôi hay ra nghe các bác các dì dạy hát quan họ trên sông Cầu. Con thuyền trôi nhẹ trên sông tới tận đêm muộn, qua những vùng di tích, qua những bãi nhãn, rặng tre, nằm xuống thả mình trên dòng nước mà nhìn trăng sáng, cảm nhận từng làn gió thổi qua, kẽ đưa tay gợn và dòng nước sông Cầu, thấy tâm hồn như không còn vướng bận điều gì.

Tôi yêu dòng sông Cầu, yêu quê hương Bắc Ninh giàu truyền thống văn hóa. Dù sau này lớn lên, trưởng thành, có phiêu bạt nơi xứ người đông đúc, cũng sẽ không bao giờ lãng quên những mảnh ký ức tưới đẹp tuổi thơ trên dòng sông quê hương, nơi tâm hồn tôi trường thành từ đó.

Để khen thưởng, động viên cho những học sinh có thành tích tốt trong năm học vừa qua trường cấp hai của em tổ chức một chuyến du lịch thay cho phần thưởng sách vở. Và em đã rất may mắn và hạnh phúc khi mình đã có thành tích học tập tốt và có mặt trong chuyến đi này.

Đây là chuyến du lịch đến thăm Lăng Bác, vì vậy em rất háo hức và kì vọng. Chuyến du lịch của trường em chính thức bắt đầu, để đảm bảo đúng lộ trình thì năm giờ sáng chúng em đã phải có mặt ở trường, vì lúc ấy trời còn khá tối nên bố đã đưa em đến trường, tận khi lên xe thì bố em mới yên tâm ra về. Chuyến đi này làm em thao thức suốt đêm, mong sao cho trời mau sáng để em có thể đến trường.

Đây là lần đầu tiên em được đi thăm Lăng Bác Hồ. Chuyến xe dừng tại Lăng Bác lúc bảy giờ ba mươi phút sáng. Ngay khi bước xuống xe cảm giác đầu tiên của em là sự choáng ngợp bởi không gian rộng lớn và sự trang nghiêm, thành kính nơi đây. Đường vào lăng Bác có rất nhiều những chú bộ đội đứng gác lăng, các chú đứng trang nghiêm với khẩu súng trên vai.

Các chú bộ đội là người ngày đêm canh giữ, bảo vệ bình yên cho giấc ngủ của Bác, tuy nhiên những chú bộ đội gác lăng không phải mặc những bộ quân phục màu xanh như ta vẫn thấy, các chú khoác lên mình bộ quân phục màu trắng, chiếc mũ màu trắng nên càng tạo ra sự trang nghiêm, thành kính cho lăng Bác.

Hôm ấy không chỉ có thầy cô và các bạn học sinh đến thăm lăng và còn rất nhiều những đoàn tham quan khác, họ đến từ khắp nơi của Tổ Quốc, đôi khi em còn bắt gặp những đoàn tham quan của những du khách nước ngoài, họ được người hướng dẫn viên giới thiệu về lăng Bác cũng như những công lao to lớn của Bác đối với dân tộc Việt Nam.

Nhìn những đoàn tham quan, em cũng như các bạn đều tràn ngập cảm xúc tự hào, vì Bác Hồ không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại trong lòng người dân Việt Nam, mà còn là một danh nhân văn hóa thế giới được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ, cảm phục.

Nơi chúng em đứng đây chính là quảng trường Ba Đình lịch sử, theo như lời của thầy trưởng đoàn thì đây chính là nơi Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập trước hàng triệu quốc dân đồng bào, tuyên bố với nhân dân cũng là lời tuyên cáo với Thế giới: nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chính thức ra đời. Đây là một dấu son lịch sử vì nó đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Ngay trước quảng trường là cột cờ, trên đó có treo lá cờ đỏ sao vàng rất lớn bay phấp phới trong gió. Khi chuẩn bị đến giờ mở cửa lăng Bác để tiếp đón đoàn người vào viếng, một nghi thức duyệt binh vô cùng đồng đều và nghiêm trang của các chú bộ đội đã diễn ra. Khi ấy, ánh nhìn của mọi người đều tập trung vào đoàn diễu hành ấy.

Sau lễ duyệt binh, chúng em được các thầy cô hướng dẫn xếp hàng để đi vào lăng. Vì khách tham quan rất đông nên hàng người vào viếng cũng rất dài. Dù phải đợi rất lâu dưới trời nắng để đợi đến lượt vào viếng, nhưng chúng em cũng như tất cả mọi người có mặt ở đây đều rất nghiêm trang, tỏ thái độ thành kính, tuyệt nhiên không hề có tiếng nói chuyện hay kêu ca gì cả.

Sau thời gian chờ đợi, cuối cùng chúng em cũng được vào lăng, không gian trong lăng không rộng lắm nhưng không khí lại vô cùng thành kính, thiêng liêng. Chúng em đi theo hàng và lần lượt đi qua nơi Bác nghỉ. Bác nằm đấy, đôi mắt hiền từ nhắm lại như đang chìm vào giấc ngủ sâu, miệng Bác như hé một nụ cười. Bác như phát ra vầng hào quang chói lọi, vừa uy nghi, vừa gần gũi.

Chuyến tham quan lăng Bác quả thật là một chuyến đi đầy thú vị, lần đầu tiên em được đến thăm Bác, được tỏ lòng thành kính, sự kính yêu vô bờ dành cho Bác, người cha già của dân tộc Việt Nam. Cũng qua chuyến đi này em cũng được học hỏi thêm được rất nhiều kiến thức bổ ích, về lịch sử Việt Nam, về công lao trời bể của chủ tịch Hồ Chí Minh.