

Đào Tuyết Anh
Giới thiệu về bản thân



































Tên nghề trong lĩnh vực tin học là: Lập trình
- Lập trình viên thuộc định hướng phát triển phần mềm trong ngành công nghệ thông tin
- Đặc điểm công việc: + Viết mã (code) để xây dựng các chương trình máy tính, ứng dụng hoặc website
+ Sửa lỗi (debug) và tối ưu hiệu suất phần
+ Làm việc theo nhóm, thường sử dụng công cụ quản lý dự án như Git, Jira....
+ Cần liên tục học hỏi vì công nghệ luôn thay đổi
- Sản phẩm đặc trưng:
+ Ứng dụng máy tính, ứng dụng di động
+ Website, phần mềm quản lý doanh nghiệp
+ Hệ thống tự động hoá hoặc công cụ hỗ trợ người dùng
- Lý do thích nghề này:
+ Nghề lập trình viên mang lại tính sáng tạo, được giải quyết vấn đề và xây dựng sản phẩm hữu ích
+ Lương cao, có nhiều cơ hội làm việc từ trong đến ngoài nước
- Lý do không thích ngành nghề này:
+ Thời gian ngồi làm việc lâu trước máy tính, áp lực deadline cao
+ Đôi khi công việc đơn điệu, nhiều lỗi kỹ thuật cần được xử lý
1. Nhập dãy số nguyên có n phần tử
Thu thập input từ người dùng hoặc từ tệp
2. Xác định số chẵn trong dãy số
Duyệt từng phần tử và kiểm tra điều kiện chia hết cho 2
3. Cộng dồn các số chẵn
Sử dụng biến để tích luỹ tổng các số thoả mãn điều kiện
4. Xuất kết quả ra màn hình
Hiển thị output cho người dùng biết
- Bài toán tin học: Tính tổng các số chẵn trong dãy số có n số nguyên
- Bài toán không thuộc tin học: Pha dung dịch muối ăn có nồng độ 5% bằng cách pha 10gam muối vào bao nhiêu lít nước ?
Câu 1.
BÀI LÀM
Với sự hiện đại của ngày nay việc sử dụng ngôn ngữ nước ngoài đặc biệt là tiếng Anh rất quan trọng và cần thiết đối với việc giao tiếp và làm việc của ngày nay. Nhưng đi kèm với nó ta cũng có thể thấy được vấn đề giữ gìn ngôn ngữ dân tộc như ở nước ta là tiếng Việt đang ngày càng trở nên nhức nhối, việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc là một điều cần thiết.. Tiếng Việt không chỉ là phương tiện giao tiếp hằng ngày mà còn là kết tinh của lịch sử, văn hóa và tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Ngôn ngữ là một phần quan trọng của bản sắc dân tộc, thể hiện nếp nghĩ, lối sống và truyền thống của người Việt. Tuy nhiên, hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, tiếng Việt đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiều bạn trẻ có xu hướng sử dụng từ ngữ lai căng, viết tắt, dùng sai chính tả, thậm chí lạm dụng tiếng lóng trong giao tiếp và trên không gian mạng. Điều này không chỉ làm mất đi vẻ đẹp vốn có của tiếng Việt mà còn gây ra những hệ lụy trong việc học tập và giao tiếp. Vì vậy, mỗi người cần ý thức hơn trong việc giữ gìn và phát huy giá trị của tiếng mẹ đẻ. Chúng ta cần nói và viết đúng ngữ pháp, sử dụng từ ngữ trong sáng, đọc sách để mở rộng vốn từ, đồng thời tránh xa lối dùng từ lệch chuẩn. Giữ gìn tiếng mẹ đẻ cũng là giữ gìn cội nguồn và sự trong sáng của dân tộc.
Câu 2.
BÀI LÀM
Tiếng Việt là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, là phương tiện lưu giữ truyền thống và tâm hồn của bao thế hệ cha ông. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, tiếng Việt không ngừng phát triển, thích nghi và khẳng định sức sống mãnh liệt trong đời sống tinh thần của người Việt. Trong bài thơ “Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân”, nhà thơ Phạm Văn Tình đã thể hiện niềm tự hào sâu sắc về tiếng mẹ đẻ, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp trường tồn và sức trẻ của tiếng Việt trong nhịp sống hiện đại.
Bài thơ là một khúc ca trữ tình, thể hiện tình cảm yêu mến và gắn bó sâu nặng của tác giả đối với tiếng Việt. Ngôn ngữ dân tộc được tái hiện qua những hình ảnh lịch sử sống động như “gươm mở cõi”, “mũi tên thần”, “hồn Lạc Việt”, cho thấy tiếng Việt đã hình thành và phát triển từ buổi đầu dựng nước. Tiếng Việt không chỉ là chứng nhân lịch sử mà còn là phương tiện ghi lại những áng văn chương bất hủ như “Hịch tướng sĩ”, “Truyện Kiều”, hay lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh – tất cả đều làm giàu thêm kho tàng tiếng mẹ đẻ. Không chỉ gắn với lịch sử và văn học, tiếng Việt còn hiện diện trong đời sống thường ngày một cách gần gũi, thân thương: tiếng em thơ bập bẹ, lời ru của bà, lời chúc Tết đầu xuân. Những chi tiết đời thường ấy càng làm nổi bật sự gần gũi, chan chứa tình cảm của tiếng mẹ đẻ trong lòng mỗi người dân Việt. Hình ảnh “bánh chưng xanh”, “chim Lạc”, “vần thơ” là những biểu tượng dân tộc giàu sức gợi, cho thấy tiếng Việt luôn tươi mới, trẻ trung, “trẻ lại trước mùa xuân”, cùng dân tộc bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập. Về mặt nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ tự do, kết hợp với nhiều biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, điệp từ..., tạo nên nhịp thơ linh hoạt và cảm xúc mượt mà. Giọng điệu khi trang nghiêm, khi tha thiết giúp bài thơ vừa có chiều sâu, vừa dễ đi vào lòng người.
Bằng lời thơ giàu cảm xúc và hình ảnh đậm đà bản sắc dân tộc, bài thơ “Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân” đã làm nổi bật vẻ đẹp, sức sống và vai trò thiêng liêng của tiếng Việt trong lịch sử và hiện tại. Qua đó, tác giả gửi gắm thông điệp sâu sắc: mỗi người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần yêu quý, giữ gìn và phát huy tiếng mẹ đẻ – một phần không thể thiếu của cội nguồn dân tộc.
Câu 1.
- Văn bản trên thuộc thể loại văn bản nghị luận
Câu 2.
- Vấn đề được đề cập đến trong văn bản là:
+ Một vài thành phố ở nước ta, các biển hiệu của các cơ sở và các trang báo của nước ta đều lạm dụng Tiếng Anh quá mức, không giữ gìn ngôn ngữ của dân tộc
+ Thói quen sử dụng ngôn ngữ nước ngoài bừa bãi
Câu 3.
- Luận điểm:
+ Tiếng nước ngoài được sử dụng trong báo chí của Việt Nam ngay cả các ngành nhà nước
+ Tiếng Anh được sử dụng nhiều hơn thay vì tiếng Việt
- Lí lẽ:
+ Hàn Quốc không lạm dụng tiếng nước ngoài
+ Hàn Quốc không bị tiếng nước ngoài lấn át như Việt Nam
- Bằng chứng:
+ "Khắp nơi đều có quảng cáo nhưng không bao giờ quảng cáo thương mại được đặt ở những công sở, hội trường lớn, danh lam thắng cảnh. Chữ nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, nếu có thì viết nhỏ, đặt dưới chữ Hàn Quốc to hơn phía trên. Đi đâu, nhìn đâu cũng thấy nổi bật những bảng hiệu chữ Hàn Quốc."
+ Chỉ có mục lục của báo thì đôi khi mới có ghi bằng chữ tiếng nước ngoài. Nhưng ở Việt Nam, đến cả những trang thông tin nghề nghiệp của nhà nước cũng ghi bằng tiếng Anh khiến cho người đọc bị bỏ mất mấy trang thông tin
Câu 4:
- Ý kiến khách quan: "Trong khi đó thì ở một vài thành phố của ta, nhìn vào đâu cũng thấy tiếng Anh, có bảng hiệu của các cơ sở của ta hẳn hoi mà chữ nước ngoài phải lớn hơn cả chữ Việt, có lúc ngỡ ngàng tưởng như mình lạc sang một nước khác."
- Ý kiến chủ quan: "Trong khi đó, ở ta, khá nhiều báo, kể cả một số tờ báo của các ngành của nhà nước ta, có cái “mốt” là tóm tắt một số bài chính bằng tiếng nước ngoài ở trang cuối, xem ra để cho “oai”, trong khi đó, người đọc trong nước lại bị thiệt mất mấy trang thông tin."
Câu 5:
- Tác giả đã lập luận rõ ràng, chặt chẽ và thuyết phục. Sử dụng phép so sánh để đối chiếu giữa hai quốc gia (Hàn Quốc và Việt Nam) nêu bật sự khác biệt trong cách ứng xử khác nhau với ngôn ngữ dân tộc.
- Lập luận được củng cố bằng những quan sát thực tế cụ thể và đi kèm với nhận xét sâu sắc, để làm nổi bật quan điểm về việc cần giữ gìn, tôn trọng tiếng mẹ đẻ như một biểu hiện của lòng tự trọng dân tộc và cũng là lòng giữ gìn bản sắc văn hóa của đất nước