Phùng Thị Phương Anh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Phùng Thị Phương Anh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1:

Tính sáng tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay trong bối cảnh xã hội không ngừng phát triển. Sáng tạo là khả năng nghĩ ra những ý tưởng mới mẻ, độc đáo và có thể áp dụng vào thực tế để giải quyết vấn đề hiệu quả. Nó không chỉ giúp người trẻ giải quyết vấn đề mà còn là chìa khóa để tạo ra giá trị mới, thể hiện bản thân và khẳng định sự khác biệt trong học tập, công việc. Một ví dụ tiêu biểu là Nguyễn Hà Đông với trò chơi Flappy Bird, hay những sáng chế như robot khử khuẩn, khẩu trang thông minh trong đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, không ít bạn trẻ hiện nay vẫn còn thụ động, thiếu sự đổi mới, sống theo lối mòn. Điều này hạn chế khả năng thích ứng với các thử thách trong cuộc sống. Vì vậy, mỗi người trẻ cần chủ động rèn luyện tư duy sáng tạo, dám thử sức và chấp nhận thất bại để không bị tụt lại phía sau. Gia đình, nhà trường và xã hội cũng cần tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích và phát huy tinh thần sáng tạo ở thế hệ trẻ.

Câu 2:

Trong nền văn học Việt Nam, đặc biệt là trong những tác phẩm viết về miền Nam, con người Nam Bộ hiện lên với những đặc trưng riêng biệt. Trong truyện "Biển người mênh mông" của Nguyễn Ngọc Tư, qua hình ảnh của hai nhân vật Phi và ông Sáu Đèo, người đọc có thể cảm nhận được những nét đẹp trong tính cách, phẩm chất của con người Nam Bộ: mộc mạc, chất phác nhưng cũng đầy tình cảm, kiên cường và bao dung.

Chuyện kể về ông Sáu Đèo được về quê sau chín năm xa cách dài đằng đẵng. Ông là một người chiến sĩ nông dân vùng Nam Bộ. Với lòng yêu nước mãnh liệt cùng sự căm ghét quân giặc sâu sắc, ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến. Ngày ông đi, ông đã cố gắng gạt đi sự quyến luyến, tình yêu thương gia đình. Để lại sau lưng là ánh mắt non nớt cùng người vợ tảo tần để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Quyết hy sinh đến tận hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng mảnh đất, ngọn cỏ của dân tộc. Có thể nói, ông chính là hình ảnh đại diện cho lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ chân chất, mộc mạc. Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày thui thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm. Khi Phi lên mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Đây là kết quả cưỡng bức của tên đồn trưởng Rạch Vàm Nấm với mẹ của Phi. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má". Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi. Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, đắng caỵ, dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" . Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt". Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. Ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao? Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, nghèo hoài. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô. Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó. Cuộc đời của ông Sáu Đèo sau khi người vợ bỏ đi, không con cái, chỉ làm bạn với con chim bìm bịp, lang thang bán vé số nay đây mai đó ở tuổi xế chiều, cô đơn. Nỗi nhớ và tiếng kêu thắt lòng của con chim bìm bịp nhắc về ông Sáu Đèo đang tiếp tục lưu lạc trên chặng đường nào. Nỗi cô đơn của Phi giữa biển người mênh mông.Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười. Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim, ông đã tìm người vợ gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, bỏ cả sông nước vốn gắn bó như máu thịt, lên bờ tìm kiếm để nói lời xin lỗi với vợ; cử chỉ “lấy tay quệt nước mắt” và câu hỏi day dứt trong ông: “Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?”,ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy, những hoài niệm về niềm hạnh phúc với người vợ, “cuộc sống nghèo vậy mà vui lám”, buồn “tìm hoài không gặp” đi liền với nỗi lo “sợ mắt mình dở rồi nên nhìn không ra cổ”, “tới chết không biết có gặp được không”. “Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại”. Ông vẫn đang mải miết đi hết những đường ngang ngõ dọc để tìm người thương, hay ông chân đã mỏi, gối đã chồn, đã dừng lại ở đâu đó trên hành trình cuộc đời mà vẫn chưa thôi khắc khoải. Trên hành trình tìm kiếm khát khao hạnh phúc đó, con người Nam Bộ trong truyện Biển người mênh mông cho chúng ta thấy tình yêu và sự gắn bó sâu quê hương xứ sở, tình cảm thuỷ chung sâu sắc, tấm lòng yêu thương, vị tha. Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa nhân vật con người Nam Bộ trong trang văn với tình huống truyện tâm trạng, cốt truyện đơn giản, điểm nhìn di chuyển vào các nhân vật; ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, giàu chất thơ cùng với giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi để lại trong lòng người đọc nhìu cảm xúc khó tả. Người đọc cảm nhận về những mảnh đời bé nhỏ, bất hạnh, trôi nổi, lưu lạc, những khát khao kiếm tìm hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Hành trình kiếm tìm tình thân, hạnh phúc ấy cũng là hành trình tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hành trình của trái tim. Truyện khiến cho mỗi người đọc không nguôi về “nỗi người” trong trang văn của tác giả.

Qua hai nhân vật Phi và ông Sáu Đèo trong "Biển người mênh mông", Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa được hình ảnh con người Nam Bộ một cách sinh động và chân thật. Đó là những con người hiền hòa, kiên cường, nhưng cũng rất giàu tình cảm và bao dung. Họ sống hòa hợp với thiên nhiên, với quê hương và luôn sẵn sàng chia sẻ, yêu thương nhau trong mọi hoàn cảnh. Hình ảnh ấy không chỉ là biểu tượng của con người Nam Bộ mà còn là niềm tự hào của văn hóa dân tộc Việt Nam.

Câu 1:

Kiểu văn bản của ngữ liệu trên là văn bản thông tin.

Câu 2:

Một số hình ảnh và chi tiết cho thấy cách giao thương, mua bán thú vị trên chợ nổi:

- Người bán, người mua sử dụng xuồng, ghe để di chuyển.

- Xuồng con len lỏi khéo léo giữa hàng trăm ghe thuyền. - Treo hàng hóa lên “cây bẹo” (sào tre) để khách dễ nhìn thấy. - Ghe treo tấm lá lợp nhà để rao bán ghe. - Sử dụng kèn tay, kèn chân để rao hàng. - Rao hàng bằng lời: “Ai ăn chè đậu đen, nước dừa đường cát hôn?...”

Câu 3:

Việc sử dụng các tên địa danh như "chợ nổi Cái Bè", "chợ nổi Cái Răng", "chợ nổi Ngã Bảy",... Giúp người đọc hình dung rõ hơn về các khu chợ nổi đang được đề cập đến, ví dụ như chợ nổi Cái Bè (Tiền Giang), chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ),...Việc nhắc đến các địa danh cụ thể làm tăng độ tin cậy của thông tin, cho thấy văn bản dựa trên những địa điểm có thật.Thể hiện sự phong phú của các chợ nổi ở nhiều tỉnh thành khác nhau trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Câu 4:

Trong văn bản trên, phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ chủ yếu là hình ảnh "cây bẹo", "xuồng ghe" và âm thanh "tiếng kèn", " lời rao"

- Tác dụng :

+ Giúp câu văn sinh động, giàu hình ảnh, gợi cảm và hấp dẫn người đọc.

+ Làm nổi bật nét độc đáo trong cách buôn bán của chợ nổi, giúp người đọc hiểu rõ hơn về văn hóa sông nước miền Tây.

+ Thể hiện sự trân trọng, yêu mến và tự hào của tác giả đối với nét văn hóa mộc mạc, độc đáo của người dân miền Tây.

Câu 5:

Văn bản giới thiệu một cách sinh động và hấp dẫn về chợ nổi – nét văn hóa đặc trưng của miền Tây Nam Bộ với những hình thức giao thương độc đáo, mang đậm bản sắc sông nước.Gợi cho ta nhận thức sâu sắc về sự sáng tạo, linh hoạt và gắn bó của con người với thiên nhiên trong đời sống mưu sinh. Nó khơi dậy tình cảm yêu mến, trân trọng giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời nhắc nhở mỗi người cần có thái độ gìn giữ, bảo tồn và phát huy những nét đẹp ấy bằng hành động cụ thể như tìm hiểu, giới thiệu và giữ gìn văn hóa dân tộc.