

Nguyễn Mạnh Giang
Giới thiệu về bản thân



































Trong mỗi thời đại, thế hệ trẻ luôn là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Họ mang trong mình sức trẻ, khát vọng và sự năng động, góp phần quyết định tương lai của đất nước. Để phát huy được hết vai trò đó, thế hệ trẻ cần xác lập cho mình một lý tưởng sống đúng đắn. Vậy lý tưởng sống là gì và tại sao điều đó lại quan trọng trong cuộc sống hôm nay?
Lý tưởng sống là những mục tiêu, hoài bão cao đẹp mà mỗi người hướng tới trong cuộc đời. Đó không chỉ là việc đạt được thành công cá nhân, mà còn là mong muốn được cống hiến, được sống có ích cho gia đình, xã hội và nhân loại. Một người trẻ có lý tưởng sống sẽ không sống thụ động, buông xuôi mà luôn nỗ lực để vượt qua khó khăn, vươn tới những điều tốt đẹp và tích cực.
Trong xã hội hiện đại, lý tưởng sống của thế hệ trẻ càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi chúng ta đang sống trong thời đại của khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, của hội nhập quốc tế mạnh mẽ và của những thay đổi không ngừng. Trong môi trường đó, nếu không có lý tưởng, người trẻ rất dễ rơi vào lối sống thực dụng, hưởng thụ, thiếu ý chí phấn đấu. Ngược lại, những người trẻ có lý tưởng sẽ luôn tìm thấy mục tiêu để sống và hành động. Họ không chỉ học để lấy bằng cấp, mà học để phát triển bản thân, góp phần xây dựng xã hội. Họ không ngại khó, ngại khổ mà sẵn sàng dấn thân, vượt thử thách để theo đuổi điều mình tin là đúng.
Thực tế đã cho thấy nhiều tấm gương người trẻ sống có lý tưởng khiến chúng ta phải khâm phục. Đó có thể là những bạn trẻ sẵn sàng rời phố thị để về vùng quê làm nông nghiệp sạch, góp phần bảo vệ môi trường. Đó cũng có thể là những sinh viên say mê nghiên cứu khoa học, phát minh ra các sản phẩm hữu ích cho cộng đồng. Hay đơn giản hơn, đó là những người trẻ nỗ lực học tập, làm việc mỗi ngày để nuôi ước mơ cống hiến cho đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn không ít bạn trẻ chưa xác định được lý tưởng sống, dễ bị cuốn theo những trào lưu lệch lạc như chạy theo đồng tiền, sống ảo, sống buông thả… Điều này không chỉ gây lãng phí tuổi trẻ mà còn ảnh hưởng xấu đến tương lai của chính họ và cả xã hội.
Vì vậy, để xây dựng được lý tưởng sống đúng đắn, người trẻ cần không ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức và ý chí. Gia đình, nhà trường và xã hội cũng cần đồng hành, định hướng, tạo điều kiện để họ phát huy tốt vai trò của mình.
Trong đoạn trích Trai anh hùng, gái thuyền quyên (trích Truyện Kiều), Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng Từ Hải – một người anh hùng lý tưởng, mang tầm vóc phi thường cả về ngoại hình, tài năng lẫn nhân cách. Ngay từ khi xuất hiện, Từ Hải đã hiện lên với tướng mạo oai phong lẫm liệt: “Râu hùm, hàm én, mày ngài / Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Không chỉ vậy, ông còn là một con người có chí khí lớn, thích cuộc sống giang hồ, tung hoành ngang dọc, khát khao lập nên sự nghiệp hiển hách. Tài năng của Từ không chỉ nằm ở võ nghệ mà còn ở mưu lược và tấm lòng nhân nghĩa. Từ Hải đến với Thúy Kiều bằng một tình yêu chân thành, tôn trọng, không màng đến tiền bạc hay danh lợi, sẵn sàng chuộc nàng mà không qua trung gian. Qua bút pháp lý tưởng hóa, Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng Từ Hải như một biểu tượng anh hùng cứu rỗi và là giấc mơ về công lý giữa xã hội phong kiến bất công. Nhân vật này không chỉ là điểm tựa của Thúy Kiều mà còn thể hiện khát vọng cao cả của tác giả về con người và thời đại lý tưởng.
Một sự sáng tạo của Nguyễn Du khi xây dựng nhân vật Từ Hải so với Thanh Tâm tài nhân là:
Nguyễn Du đã lý tưởng hóa và nâng tầm Từ Hải thành một hình tượng anh hùng mang tầm vóc sử thi – vừa phi thường về ngoại hình, vừa toàn diện về tài trí và khí phách.
---
Cụ thể:
Ở bản gốc của Thanh Tâm tài nhân, Từ Hải hiện lên là một hảo hán đời thường, có lai lịch rõ ràng, từng đi thi, buôn bán, giàu có, thích kết giao với giang hồ hiệp khách – một người thực tế, gần gũi hơn với đời sống xã hội.
Còn trong bản của Nguyễn Du, Từ Hải hiện ra ngay từ đầu với vẻ đẹp phi thường, mang dáng dấp thần thoại:
“Râu hùm, hàm én, mày ngài” – tướng mạo phi thường
“Đường đường một đấng anh hào / Đội trời đạp đất ở đời” – khí phách lẫm liệt
“Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” – thể hiện khát vọng tung hoành ngang dọc, cứu đời giúp người
Nhân vật Từ Hải được khắc họa bằng bút pháp lý tưởng hóa (hoặc bút pháp ước lệ tượng trưng).
---
Phân tích tác dụng của bút pháp đó:
Làm nổi bật hình tượng anh hùng phi thường:
Bằng những hình ảnh ước lệ như “râu hùm, hàm én, mày ngài”, “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, Nguyễn Du đã tạo nên một Từ Hải có ngoại hình lẫm liệt, oai phong khác thường – hình ảnh mang tầm vóc của người anh hùng trong truyền thuyết.
Thể hiện chí khí và khát vọng lớn lao:
Những câu thơ như “đội trời đạp đất ở đời”, “giang hồ quen thú vẫy vùng”... cho thấy Từ Hải là người có hoài bão phi thường, không chấp nhận cuộc sống tầm thường, luôn khát khao vẫy vùng giữa thời cuộc.
Tôn vinh mối tình đẹp và lý tưởng:
Việc lý tưởng hóa Từ Hải cũng góp phần khẳng định tình yêu giữa Từ Hải – Thúy Kiều là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn cao đẹp, xứng đáng, tạo nên một mối duyên lý tưởng "trai anh hùng, gái thuyền quyên".
Những từ ngữ, hình ảnh miêu tả nhân vật Từ Hải:
Ngoại hình:
Râu hùm, hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Đường đường một đấng anh hào
Tài năng, khí chất:
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài
Đội trời, đạp đất ở đời
Giang hồ quen thú vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già
Tấm lòng, cách cư xử:
Một lời đã biết đến ta, muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân
---
Nhận xét về thái độ của tác giả Nguyễn Du đối với Từ Hải:
Nguyễn Du thể hiện sự ngưỡng mộ, trân trọng và lý tưởng hóa nhân vật Từ Hải. Ông xây dựng Từ Hải như một người anh hùng phi thường cả về ngoại hình, tài năng, chí khí lẫn nhân cách. Từ là hình mẫu của người đàn ông lý tưởng trong mơ ước của Thúy Kiều và cũng là hình tượng anh hùng lý tưởng trong xã hội phong kiến mà tác giả hướng tới.
1. Tấn Dương: Nơi Đường Cao Tổ khởi binh đánh nhà Tùy, hàm ý Từ Hải sẽ làm nên nghiệp lớn như bậc đế vương.
2. Mắt xanh: Điển tích từ Nguyên Tịch đời Tấn, người trọng ai thì nhìn bằng mắt xanh; ở đây ám chỉ Kiều trân trọng Từ Hải.
3. Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo: Liên hệ đến câu thơ của Hoàng Sào, nói về người có chí lớn, đi khắp non sông chỉ với một mái chèo.
4. Sánh phượng, cưỡi rồng: Điển tích chỉ mối lương duyên tốt đẹp, tương xứng giữa trai anh hùng và gái thuyền quyên.
5. Trần ai: Nghĩa là bụi trần, thế gian, ám chỉ cảnh đời khi người anh hùng còn chưa thành danh.
kể về cuộc gặp gỡ và nên duyên của Thúy Kiều và Từ Hải