Đỗ Thị Khánh Ly

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Đỗ Thị Khánh Ly
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Bài 1: Câu 1: Văn bản thuộc kiểu văn bản thuyết minh.

Câu 2: Một số hình ảnh, chi tiết cho thấy cách giao thương, mua bán thú vị trên chợ nổi: - Người bán hàng dùng cây sào tre dài để treo hàng hóa, giúp khách nhìn thấy từ xa. - Các ghe bán hàng dạo sử dụng kèn bấm bằng tay hoặc kèn đạp bằng chân để thu hút khách. - Người bán hàng rao mời bằng lời nói, ví dụ như "Ai ăn chè đậu đen, nước dừa đường cát hôn...?".

Câu 3: Việc sử dụng tên các địa danh trong văn bản giúp cụ thể hóa và tăng độ tin cậy cho thông tin về các chợ nổi ở miền Tây.

Câu 4: Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn bản (ví dụ như cây bẹo, kèn bấm, kèn đạp) giúp thu hút khách và tạo sự chú ý cho người mua.

Câu 5: Chợ nổi đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân miền Tây, không chỉ là nơi giao thương hàng hóa mà còn là nét văn hóa đặc trưng của vùng sông nước.

Câu 1: Tính sáng tạo đóng vai trò quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay. Nó giúp họ phát triển khả năng tư duy, giải quyết vấn đề và tạo ra những ý tưởng mới. Tính sáng tạo cũng giúp thế hệ trẻ thích nghi với sự thay đổi của xã hội và công nghệ, từ đó có thể tạo ra những cơ hội mới và đạt được thành công.

Câu 2: Qua nhân vật Phi và ông Sáu Đèo trong truyện "Biển người mênh mông" của Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy được hình ảnh của người Nam Bộ với tính cách phóng khoáng, hào sảng và tình cảm sâu đậm. Phi là một nhân vật có hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn luôn nỗ lực và kiên trì trong cuộc sống. Ông Sáu Đèo là một người đàn ông lớn tuổi với tâm hồn sâu sắc và tình cảm gia đình tha thiết. Cả hai nhân vật đều thể hiện được nét văn hóa đặc trưng của người Nam Bộ.

Câu 1:Ra chiếu cầu hiền là một việc làm quen thuộc của các bậc đế vương lúc mới lên ngôi và lúc đang ra tay xếp đặt lại chính sự. Không có gì đáng ngạc nhiên khi ta thấy văn học trung đại còn để lại nhiều "tờ" chiếu cầu hiền, được viết bởi những tác giả khác nhau, thừa lệnh những ông vua khác nhau. Số lượng tuy nhiều nhưng không phải chiếu cầu hiền nào cũng được hậu thế thưởng thức như một áng văn có giá trị, được các nhà sử học quan tâm tìm hiểu kĩ càng để có thể nhận ra được thực chất của một triều đại và tầm nhìn của một đấng quân vương. Điều này có liên quan đến văn tài của người viết cùng tình huống lịch sử buổi chiếu cầu hiền được ban bố (với loại hình tác phẩm như chiếu cầu hiền, việc tìm hiểu kĩ càng những yếu tố ngoài văn bản có ý nghĩa rất quan trọng).

Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt vua Quang Trung là một "tờ" chiếu nổi tiếng. Nổi tiếng bởi nó gắn với tên tuổi của một người có công nghiệp rõ ràng, hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước nhà, nhưng chưa được một số tầng lớp nhất định trong xã hội (nhất là giới sĩ phu Bắc Hà) tuyệt đối ngưỡng phục, do ông xuất thân không phải từ thành phần quý tộc, lại khởi nghiệp từ một miền đất mới và do vài nguyên nhân khác nữa. Nổi tiếng bởi nó ra đời vào điểm cuối của một thời loạn lạc triền miên (kéo dài trong suốt gần hai trăm năm), khi nhân tâm li tán cùng cực, từ kẻ sĩ đến thứ dân, không mấy người tin và dám tin vào một cái gì chắc chắn. Đặc biệt, nổi tiếng do nó được viết bởi một trí thức hàng đầu của đất nước thời đó là Ngô Thì Nhậm - người đã biết vượt lên mọi dị nghị, hăng hái đứng ra phục vụ tân triều,... Khi đảm trách việc viết Chiếu cầu hiền cho vua mới, Ngô Thì Nhậm có được những thuận lợi lớn: quan hệ giữa ông và Quang Trung là rất tốt đẹp. Quang Trung hiểu ông, trọng dụng ông và ông không chỉ phục mà còn biết ơn sâu xa người anh hùng này. Nhưng ông không phải chỉ gặp toàn thuận lợi. Tiếng gì ông cũng là bề tôi cũ của chúa Trịnh, giờ nói về đức sáng của Nguyễn Huệ, không dễ gì thuyết phục được những người cố chấp. Thêm nữa, ông hiểu những khó khăn riêng của vị vua "áo vải cờ đào" này (mà ở trên đã đề cập). Ông không có được sự thoải mái hoàn toàn như Nguyễn Trãi ngày xưa khi cũng thảo Chiếu cầu hiền (thay mặt Lê Lợi, lúc cuộc bình Ngô đã thành công trọn vẹn). Ban Chiếu cầu hiền, Lê Lợi hoàn toàn có lí do để không phải tỏ thái độ quá khiêm nhường. Nguyễn Trãi hiểu điều đó nên đã thể hiện lời của Lê Lợi như một mệnh lệnh nghiêm khắc: "Vậy hạ lệnh cho các văn võ đại thần, công hầu, đại phu, từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã...". Nguyễn Trãi cũng biết rõ uy lực của một bậc đế vương vừa hoàn thành đại nghiệp, rất quyết đoán trong việc thưởng phạt, nên đã viết: "Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực, nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bực, tất được trọng thưởng"... Những điều vừa được trình bày cho thấy: dù chiếu là một thể loại văn bản hành chính của nhà nước, nó có những đinh lệ riêng, nhưng không phải vì thế mà viết nó chỉ là việc mỏ phỏng theo công thức. Tính cách, tư tưởng, tầm nhìn của các vị vua là khác nhau. Tình hình đất nước trong mỗi thời lại có những nét đặc thù. Bởi vậy, mức độ nhạy cảm về chính trị, khả năng luận thuyết, tài văn chương,... của người lĩnh mệnh thảo chiếu luôn có đất để thể hiện. Đọc Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt Quang Trung, độc già ngày nay có thể hiểu được rất nhiều điều về hai nhân vật xuất chúng này của đất nước - riêng từng người và cả mối quan hệ vua - tôi đầy đồng cảm, đầy tâm đắc giữa họ nữa. Chiếu cầu hiền ta đang nói có ba phần lớn, liên kết với nhau theo một logic chặt chẽ. Phần đầu của văn bản tập trung luận về người hiền và chức năng của họ. Người hiền được tác giả ví "như ngôi sao sáng trên trời cao" và chức năng của họ được xác định là "làm sứ giả cho thiên tử". Mối liên hệ giữa hai vấn đề này là gì ? Tại sao không ví người hiền với đối tượng nào khác ? Tất cả những điều này đều đã được tác giả ý thức. Người hiền như sao sáng - riêng so sánh này đã toát lên ý tôn vinh và trân trọng rất mực. Nhưng trong mạch lập luận của mình, tác giả nói đến nhiều ngôi sao là để dẫn chúng ta tới một ngôi sao chính: sao Bắc Thần (tức là Bắc Đẩu). Bắc Thần trước hết là sao - một ngôi sao có vị trí đặc biệt trên bầu trời, không ai không biết. Quan trọng hơn, Bắc Thần còn là hình ảnh tượng trưng cho hoàng đế, theo cách hình dung của đức Khổng Tử. Thì ra mấu chốt của mối liên hệ là ở chỗ này. Mọi sao trên trời đều chầu về sao Bắc Thần nằm ở vị trí trục quay của trái đất (nói theo kiến thức thiên văn của người ngày nay), vậy sao - hiền - tài từ các miền không chầu về sao - Bắc - Thần - thiên - tử thì còn chầu về đâu nữa! Đó thực là một lẽ tất yếu. Đạo người, luật người phải tương hợp, phải thuận theo đạo trời, luật trời, không thể khác được. Từ một so sánh tưởng chừng ngẫu hứng và nặng về tình cảm, tác giả dẫn người đọc tới một kết luận nghiêm túc và hết sức lô-gíc. Như vậy, ngay từ mấy câu đầu, cái hay trong cách lập luận của áng văn

Câu 2:Thân Nhân Trung, một danh sĩ nổi tiếng thời nhà Trần, từng khẳng định: "Hiền tài là nguồn sức mạnh của quốc gia, nếu nguồn sức mạnh này phát triển thì đất nước càng mạnh mẽ và phồn thịnh, ngược lại, nếu suy yếu thì quốc gia trở nên yếu đuối và tụt hậu." Câu nói này thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về vai trò của người tài đối với sự phát triển của một quốc gia. Trong xã hội hiện đại, vai trò của người hiền tài ngày càng được thúc đẩy, nhưng thực trạng "chảy máu chất xám" đang là một thách thức đối với quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước.

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là tự sự và biểu cảm nhưng chủ yếu là hành văn của một văn bản chính luận. Câu 2: Chủ thể bài viết là vua(Lê Lợi). Câu 3: Mục đích chính của văn bản trên là tìm kiếm và trọng dụng người hiền tàicho đất nước. Đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản bao gồm: - Khuyến khích các quan lại từ tam phẩm trở lên tiến cử người tài. - Thưởng cho những người tiến cử được người tài đức. - Cho phép người tài tự tiến cử mình. Câu 4: Để minh chứng cho luận điểm "được hiền tài là điều quan trọng khi có được nước", người viết đã đưa ra dẫn chứng về các vị quan nổi tiếng như Tiêu Hà, Nguy Vô Trì, Địch Nhân Kiệt, Tiêu Tung. Cách nêu dẫn chứng của người viết là lấy ví dụ từ lịch sửđể chứng minh tầm quan trọng của việc cầu hiền tài. Câu 5: Thông qua văn bản trên, có thể nhận xét rằng chủ thể bài viết (vua Lê Lợi) là một người trọng dụng nhân tài và muốn xây dựng đất nước bằng cách tìm kiếm và sử dụng người có tài. Ông cũng thể hiện sự khiêm tốn và mong muốn được giúp đỡ bởi những người tài đức.