Phạm Hoàng Tuấn Anh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Phạm Hoàng Tuấn Anh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Bài 1: a. Lực kéo: 800 N, Công: 36 kJ, Công suất: 2,4 kW b. Lực kéo: 1800 N, Công: 81 kJ, Công suất: 5,4 kW

Bài 2: Khối lượng: 0,5 kg Vận tốc ở độ cao 3 m: 3 10m/s

Câu 1 (0.5 điểm): Phương thức biểu đạt chính: Tự sự. Câu 2 (0.5 điểm): Tình huống truyện: Thằng Bào vì bị ép buộc phải bắt con chim vàng cho cậu chủ là thằng Quyên nên đã liều mình trèo cây để bắt chim, dẫn đến tai nạn ngã từ trên cây xuống, bị thương nặng, trong khi con chim vàng cũng chết. Câu 3 (1.0 điểm): Ngôi kể: Ngôi thứ ba. Tác dụng: Tạo cái nhìn khách quan, bao quát toàn bộ câu chuyện. Giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn số phận, tâm lý nhân vật (đặc biệt là Bào) thông qua sự miêu tả từ bên ngoài. Làm nổi bật mối quan hệ giữa các nhân vật và lên án sự bất công trong xã hội. Câu 4 (1.0 điểm): Phân tích chi tiết: Chi tiết “Mắt Bào chập chờn thấy bàn tay mẹ thằng Quyên thò xuống. Tay Bào với tới, với mãi, với mãi nhưng cũng chẳng với được ai” mang ý nghĩa sâu sắc: Thể hiện sự khao khát được cứu giúp, được cảm thông của Bào trong lúc nguy kịch. Là hình ảnh đầy bi kịch, cho thấy sự cô độc, bất lực và thân phận nhỏ bé, bị bỏ rơi của Bào. Gợi lên sự xót xa, đau đớn, đồng thời tố cáo sự tàn nhẫn, vô cảm của người lớn, của xã hội đối với trẻ em nghèo khổ. Câu 5 (1.0 điểm): Nhận xét về nhân vật Bào: Là cậu bé nghèo khổ, ngoan ngoãn, chịu nhiều áp bức, bất công. Dù bị đánh đập, mắng chửi nhưng vẫn cố gắng làm vừa lòng cậu chủ. Dũng cảm, quyết tâm, sẵn sàng liều mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thông điệp của tác giả: Tác giả thể hiện tình cảm thương cảm, trân trọng đối với số phận của những đứa trẻ nghèo khổ như Bào, đồng thời lên án mạnh mẽ sự tàn nhẫn, bất công trong xã hội phong kiến – nơi con người bị đối xử như nô lệ không có quyền sống đúng nghĩa.




Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích truyện ngắn trong phần Đọc hiểu. Truyện ngắn “Con chim vàng” của Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm giàu tính nhân văn, phản ánh số phận bất hạnh và tâm hồn trong sáng của những đứa trẻ nghèo. Nhân vật trung tâm là Bào – một cậu bé phải đi ở đợ để trả nợ cho mẹ. Em bị bóc lột, đánh đập và bắt ép làm những điều quá sức, điển hình là việc trèo cây bắt chim để làm vừa lòng cậu chủ. Hành động “tay Bào với tới... nhưng chẳng với được ai” là một chi tiết đầy ám ảnh, thể hiện nỗi tuyệt vọng, khát khao được cứu giúp nhưng không ai đáp lại. Truyện lên án sâu sắc sự bất công trong xã hội cũ, nơi mà trẻ em nghèo bị đối xử như những công cụ, không có quyền được sống đúng nghĩa. Đồng thời, tác phẩm còn khiến người đọc cảm nhận rõ sự đối lập giữa vẻ đẹp thuần khiết của thiên nhiên – hình ảnh con chim vàng – và sự tàn nhẫn của con người. Qua đó, Nguyễn Quang Sáng thể hiện niềm xót xa và tình thương yêu dành cho những phận người nhỏ bé, đặc biệt là những đứa trẻ vô tội. Câu 2 (4.0 điểm): Viết bài văn khoảng 600 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tình yêu thương trong cuộc sống. Tình yêu thương là sợi dây vô hình nhưng vô cùng mạnh mẽ kết nối con người với nhau. Đó không chỉ là biểu hiện của cảm xúc mà còn là nền tảng đạo đức, là giá trị cốt lõi làm nên một xã hội nhân văn, tốt đẹp. Tình yêu thương có thể biểu hiện bằng nhiều cách: là sự quan tâm, chia sẻ, đồng cảm giữa người với người; là hành động giúp đỡ, nâng đỡ nhau lúc khó khăn, hoạn nạn; là sự tha thứ, bao dung khi người khác lầm lỗi. Yêu thương không chỉ giúp người nhận cảm thấy ấm áp, được chở che mà còn khiến người trao cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn. Khi biết yêu thương, con người không chỉ sống vì mình mà còn vì người khác, biết đặt mình vào vị trí của người khác để cảm thông và hành xử đúng đắn hơn. Tình yêu thương làm dịu đi những nỗi đau, chữa lành những tổn thương và xóa tan khoảng cách giữa con người với nhau. Trong một thế giới ngày càng phát triển nhưng cũng đầy rẫy sự vô cảm, vị kỷ, thì yêu thương chính là liều thuốc tinh thần giúp con người tìm lại sự gắn bó, chân thành. Một lời động viên đúng lúc, một hành động tử tế nhỏ bé cũng có thể thay đổi cả một cuộc đời. Tuy nhiên, không phải ai cũng dễ dàng trao đi tình yêu thương. Có những người vì tổn thương, vì ích kỷ mà quên đi cách yêu thương người khác. Vì vậy, chúng ta cần học cách mở lòng, lắng nghe và sẻ chia. Yêu thương không cần phải là những hành động lớn lao mà có thể bắt đầu từ những điều giản dị nhất – một ánh mắt, một nụ cười, một lời hỏi thăm chân thành. Tình yêu thương chính là ánh sáng soi đường, là nguồn động lực khiến con người mạnh mẽ vượt qua nghịch cảnh. Hãy sống yêu thương để thấy cuộc đời dịu dàng và đẹp đẽ hơn từng ngày.

Khước từ sự vận động. Tìm quên trong những giấc ngủ vùi. Tìm sự an toàn trong vẻ ngoan ngoãn bất động khiến người thân phải đau lòng. Bỏ quên những khát khao dài rộng. Bải hoải trong tháng ngày chật hẹp? Như dòng sông chưa ra được biển rộng đã lịm trong đầm lầy? Như dòng sông muộn phiền quanh vách núi? Như chính cái đầm lầy? Như cái hồ dài kì dị sống đời thực vật? Sông như đời người. Và sông phải chảy. Như tuổi trẻ phải hướng ra biển rộng. Còn gì buồn hơn khi ta sớm phải làm một dòng sông muộn phiền. Khước từ trải nghiệm. Khước từ nắng gió. Khước từ đi tới. Khước từ sự vận động. Không thể thế bởi mỗi ngày ta phải bước đi như nghe trong mình tiếng gọi chảy đi sông ơi. Như dòng sông tha thiết trôi. (Trích Ngày trong sương mù - Hà Nhân, NXB Văn học, 2016, tr.38) Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản. Câu 2. Chỉ ra hai lối sống mà con người đã từng đôi lần trải qua được tác giả nêu trong đoạn trích. Câu 3. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn: “Sông như đời người. Và sông phải chảy. Như tuổi trẻ phải hướng ra biển rộng.”. Câu 4. Em hiểu như thế nào về “tiếng gọi chảy đi sông ơi” được nhắc đến trong câu văn: “Không thể thế bởi mỗi ngày ta phải bước đi như nghe trong mình tiếng gọi chảy đi sông ơi.”? Câu 5. Từ nội dung văn bản, em rút ra được bài học nào? Vì sao? Tuyệt vời! Đây là phần trả lời chi tiết cho từng câu hỏi của bạn: Câu 1. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản là nghị luận kết hợp với biểu cảm. Nghị luận: Tác giả đưa ra những suy ngẫm, những lập luận về thái độ sống, về sự cần thiết của vận động và khát vọng vươn tới trong cuộc đời. Các câu hỏi tu từ mang tính chất gợi mở, dẫn dắt người đọc suy nghĩ về vấn đề. Biểu cảm: Văn bản thể hiện rõ những cảm xúc, trăn trở, nỗi buồn và khát khao của tác giả trước những trạng thái sống tiêu cực, thụ động. Những hình ảnh so sánh (dòng sông lịm trong đầm lầy, dòng sông muộn phiền, đầm lầy, hồ dài kì dị) đều mang đậm sắc thái biểu cảm. Câu 2. Hai lối sống mà con người đã từng đôi lần trải qua được tác giả nêu trong đoạn trích là: Lối sống khước từ sự vận động, tìm quên trong những giấc ngủ vùi, tìm sự an toàn trong vẻ ngoan ngoãn bất động, bỏ quên những khát khao dài rộng, bải hoải trong tháng ngày chật hẹp. Đây là lối sống thụ động, né tránh, thiếu ý chí và khát vọng vươn lên. Tác giả so sánh lối sống này với hình ảnh "dòng sông chưa ra được biển rộng đã lịm trong đầm lầy", "dòng sông muộn phiền quanh vách núi", "đầm lầy", "hồ dài kì dị sống đời thực vật" để nhấn mạnh sự trì trệ, buồn tẻ và vô nghĩa của nó. Lối sống hướng tới sự vận động, khát khao trải nghiệm, không ngừng tiến về phía trước. Đây là lối sống tích cực, đầy đam mê và ý nghĩa. Tác giả ví von "tuổi trẻ phải hướng ra biển rộng" và khẳng định "mỗi ngày ta phải bước đi như nghe trong mình tiếng gọi chảy đi sông ơi" để thể hiện sự thôi thúc nội tại, khát vọng được khám phá và phát triển. Câu 3. Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn “Sông như đời người. Và sông phải chảy. Như tuổi trẻ phải hướng ra biển rộng.” là so sánh. "Sông như đời người": So sánh cuộc đời con người với dòng sông, gợi lên sự tương đồng về sự vận động, sự trôi chảy không ngừng. "Như tuổi trẻ phải hướng ra biển rộng": Tiếp tục so sánh tuổi trẻ với dòng sông hướng ra biển rộng, nhấn mạnh khát vọng vươn xa, khám phá những điều mới mẻ, rộng lớn của tuổi trẻ. Tác dụng: Biện pháp so sánh này có tác dụng: Làm cho hình ảnh trừu tượng (cuộc đời, tuổi trẻ) trở nên cụ thể, sinh động và dễ hình dung hơn. Người đọc có thể cảm nhận rõ hơn về quy luật vận động tất yếu của cuộc đời và khát vọng tự nhiên của tuổi trẻ. Tăng tính biểu cảm, gợi cảm xúc mạnh mẽ cho người đọc. Sự liên tưởng giữa dòng sông và cuộc đời, tuổi trẻ tạo ra một hình ảnh đẹp và ý nghĩa, khơi gợi những suy nghĩ sâu sắc về lẽ sống. Nhấn mạnh ý tưởng chủ đạo của đoạn trích: Sự vận động, sự hướng tới những điều lớn lao là quy luật tất yếu và là lẽ sống đẹp của con người, đặc biệt là tuổi trẻ. Câu 4. Tôi hiểu “tiếng gọi chảy đi sông ơi” được nhắc đến trong câu văn: “Không thể thế bởi mỗi ngày ta phải bước đi như nghe trong mình tiếng gọi chảy đi sông ơi.” là sự thôi thúc, khát vọng nội tại, một tiếng gọi từ sâu thẳm tâm hồn mỗi người, đặc biệt là những người trẻ, hướng tới sự vận động, sự phát triển và những trải nghiệm mới mẻ trong cuộc sống. Đây không phải là một âm thanh vật lý mà là một cảm nhận, một ý thức mạnh mẽ về việc không thể đứng yên, không thể chấp nhận sự trì trệ. Nó là tiếng gọi của đam mê, của ước mơ, của nhu cầu được khám phá thế giới và khẳng định bản thân. Giống như dòng sông luôn hướng về biển cả, con người cũng mang trong mình khát vọng vươn tới những chân trời rộng lớn hơn. Câu 5. Từ nội dung văn bản, em rút ra được bài học sâu sắc về ý nghĩa của sự vận động và khát vọng vươn lên trong cuộc sống. Bài học: Cuộc sống là một dòng chảy không ngừng, và con người cũng cần phải vận động, phát triển để không bị tụt lại, không trở nên khô cằn và vô nghĩa như "dòng sông lịm trong đầm lầy" hay "hồ dài kì dị sống đời thực vật". Tuổi trẻ càng cần phải có những khát khao, những ước mơ lớn lao để hướng tới "biển rộng", trải nghiệm và khám phá thế giới. Việc khước từ sự vận động, né tránh thử thách sẽ dẫn đến sự buồn tẻ, hối tiếc và đánh mất những tiềm năng của bản thân. Vì sao: Văn bản đã sử dụng những hình ảnh so sánh mạnh mẽ và giàu tính biểu cảm để khắc họa rõ nét sự đối lập giữa một cuộc sống trì trệ, thụ động và một cuộc sống năng động, đầy khát vọng. Những câu hỏi tu từ và khẳng định của tác giả đã khơi gợi trong em những suy nghĩ sâu sắc về thái độ sống. Em nhận ra rằng, để có một cuộc sống ý nghĩa và trọn vẹn, mình cần phải luôn giữ cho trái tim "chảy" như dòng sông, không ngừng học hỏi, khám phá và vươn tới những mục tiêu cao đẹp. "Tiếng gọi chảy đi sông ơi" chính là tiếng gọi của sự sống, của tuổi trẻ và của những khát vọng mà mỗi người cần lắng nghe và theo đuổi. Ngắn gọn Câu 1. Nghị luận kết hợp biểu cảm. Câu 2. Lối sống thụ động, trì trệ và lối sống tích cực, hướng tới sự vận động. Câu 3. So sánh. Tác dụng: Làm hình ảnh trừu tượng cụ thể, sinh động, tăng tính biểu cảm, nhấn mạnh sự vận động và khát vọng của tuổi trẻ. Câu 4. Sự thôi thúc, khát vọng nội tại hướng tới sự vận động và trải nghiệm. Câu 5. Bài học về ý nghĩa của sự vận động và khát vọng vươn lên. Vì cuộc sống là dòng chảy, cần vận động để không trì trệ và đạt được ý nghĩa. Câu 1. (2.0 điểm) Mark Twain từng nói: “Hai mươi năm sau bạn sẽ hối hận vì những gì bạn đã không làm, hơn là những gì bạn đã làm. Vậy nên hãy tháo dây, nhổ neo và ra khỏi bến đỗ an toàn.”. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về nhận định trên. Câu 2. [Lược một đoạn: Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính tên Tâm, được người mẹ tần tảo sớm khuya nuôi dạy nên người. Tuy nhiên, khi được ra thành phố học tập và làm việc, trong suốt sáu năm, anh chỉ gửi tiền hàng tháng về cho mẹ, không báo tin mình đã lấy vợ và tuyệt nhiên không một lời hỏi thăm, không để tâm đến những bức thư mẹ gửi từ quê ra. Khi bất đắc dĩ có việc phải về nhà, anh mới có dịp gặp lại mẹ…]. Khi vào đến sân nhà, Tâm thấy bốn bề yên lặng, không có bóng người. Cái nhà cũ vẫn như trước, không thay đổi, chỉ có sụp thấp hơn một chút và mái gianh xơ xác hơn. Tâm bước qua sân rồi đẩy cái liếp bước vào. Vẫn cái gian nhà mà chàng đã sống từ thuở nhỏ. Tâm cất tiếng gọi. Chàng nghe thấy tiếng guốc đi, vẫn cái tiếng guốc ấy, thong thả và chậm hơn trước, rồi mẹ Tâm bước vào. Bà cụ đã già đi nhiều, nhưng vẫn mặc cái bộ áo cũ kỹ như mấy năm về trước. Khi nhận ra con, bà cụ ứa nước mắt: - Con đã về đấy ư? - Vâng, chính tôi đây, bà vẫn được mạnh khỏe đấy chứ? - Câu nói như khó khăn mới ra khỏi miệng được. - Bà ở đây một mình thôi à? Bà cụ cảm động đến nỗi không nói được. Một lát bà mới ấp úng: - Vẫn có con Trinh nó ở đây với tôi. - Cô Trinh nào? Có phải cô Trinh con bác Cả không? - Tâm nhớ mang máng cái cô con gái bé nhỏ ngày trước vẫn hay chơi với chàng. - Tôi tưởng cô ta đi lấy chồng rồi. Bà cụ ngồi xuống chiếc phản gỗ, đáp: - Đã lấy ai đâu. Con bé dở hơi chết đi ấy mà. Cũng đã có mấy đám hỏi, mà nó không chịu lấy. - Bà cụ yên lặng một lát. - Thỉnh thoảng nó vẫn nhắc đến cậu đấy. Tâm nhún vai, không trả lời. Tuy ngoài trời nắng, mà Tâm thấy bên trong cái ẩm thấp hình như ở khắp tường lan xuống, thấm vào người. Bà cụ âu yếm nhìn con, săn sóc hỏi: - Năm ngoái bác Cả lên tỉnh về bảo cậu ốm. Tôi lo quá, nhưng quê mùa chả biết tỉnh thế nào mà đi, thành ra không dám lên thăm. Bây giờ cậu đã khỏe hẳn chưa? Tâm nhìn ra ngoài đáp: - Như thường rồi. Rồi muốn nói sang chuyện khác, Tâm hỏi: - Ở làng có việc gì lạ không? - Bà cụ trả lời: - Chả việc gì lạ sất, ngày nào cũng như ngày nào, nhưng được có con Trinh sang đây với tôi nên cũng đỡ buồn. Nó thường vẫn làm giúp tôi nhiều công việc, con bé thế mà đảm đang đáo để, đã chịu khó lại hay làm. […] Tâm lơ đãng nghe lời mẹ kể những công việc và cách làm ăn ngày một khó khăn ở làng. Chàng dửng dưng không để ý đến. Con bác Cả Sinh lấy vợ, hay chú bác ta chết thì có can hệ gì đến chàng? Cái đời ở thôn quê với đời của chàng, chắc chắn, giàu sang, không có liên lạc gì với nhau cả. Câu chuyện nhạt dần. Những câu hỏi và sự săn sóc của bà cụ về công việc của chàng chỉ làm cho Tâm khó chịu. Chàng trả lời qua loa lấy lệ. Nghĩ đến vợ đợi, Tâm vội vàng đứng dậy. Bà cụ nhìn theo khẩn khoản: - Cậu hãy ở đây ăn cơm đã. Đến chiều hãy ra. - Thôi, bà để tôi về. Độ này bận công việc lắm. - Tâm lại an ủi: - Nhưng thế nào có dịp tôi cũng về. Rồi Tâm mở ví lấy ra bốn tấm giấy bạc 5 đồng đưa cho mẹ. Tâm hơi kiêu ngạo, trước mặt cô Trinh, chàng nói: - Đúng hai chục, bà cầm lấy mà tiêu, có thiếu tôi lại gửi về cho. - Bà cụ run run đỡ lấy gói bạc, rơm rớm nước mắt. Tâm làm như không thấy gì, vội vàng bước ra. […] Ra đến ngoài Tâm nhẹ hẳn mình. Chàng tự cho là đã làm xong bổn phận. (Trích Trở về, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2004, tr.24-27.) * Chú thích: - Nhà văn Thạch Lam là cây bút xuất sắc trong nhóm Tự lực văn đoàn. Ông sinh năm 1910 tại Hà Nội, tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi tên là Nguyễn Tường Lân, bút danh Thạch Lam. - Tác phẩm hướng về đời sống bình dị, tình cảm nghiêng về người nghèo, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ. Lối viết trữ tình hướng nội, khơi sâu vào đời sống bên trong với những rung động và cảm giác tế vi. Câu 1 Nhận định của Mark Twain: “Hai mươi năm sau bạn sẽ hối hận vì những gì bạn đã không làm, hơn là những gì bạn đã làm. Vậy nên hãy tháo dây, nhổ neo và ra khỏi bến đỗ an toàn.” đã chạm đến một khía cạnh sâu sắc trong hành trình cuộc đời mỗi người. Câu nói này không chỉ là một lời khuyên mà còn là một lời cảnh tỉnh mạnh mẽ về sự trân trọng thời gian và tinh thần dám dấn thân. Thật vậy, khi nhìn lại quãng thời gian đã qua, những điều khiến chúng ta day dứt thường không phải là những vấp ngã hay thất bại do hành động gây ra, mà chính là những cơ hội đã bỏ lỡ, những đam mê chưa dám thực hiện, những lời yêu thương chưa kịp nói. Sự hối tiếc vì những điều "đã không làm" thường mang một nỗi nặng nề dai dẳng hơn, bởi nó gợi lên cảm giác về một tiềm năng chưa được khai phá, một con đường chưa dám bước chân. "Bến đỗ an toàn" mà Mark Twain nhắc đến có thể là sự ổn định giả tạo, sự ngại thay đổi, nỗi sợ thất bại đã trói buộc chúng ta, khiến ta bỏ lỡ những trải nghiệm quý giá và những cơ hội để trưởng thành. Lời khuyên "hãy tháo dây, nhổ neo và ra khỏi bến đỗ an toàn" chính là lời kêu gọi mỗi người hãy mạnh dạn bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân. Hãy can đảm theo đuổi ước mơ, chấp nhận rủi ro và đối mặt với những thử thách. Bởi lẽ, chính những trải nghiệm, dù thành công hay thất bại, mới là những bài học quý giá, làm phong phú tâm hồn và định hình nên con người chúng ta. Hai mươi năm sau, chúng ta sẽ không hối tiếc vì những lần vấp ngã trên hành trình khám phá, mà sẽ hối tiếc vì đã không dám thử, không dám sống hết mình với những khát khao của trái tim. Câu 2. (4.0 điểm) Đoạn trích "Trở về" của Thạch Lam đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc hình ảnh người mẹ nghèo khổ, tần tảo nơi thôn quê, qua đó làm nổi bật những phẩm chất cao đẹp và nỗi buồn thầm lặng của bà. Dù chỉ xuất hiện qua lời kể và sự quan sát hờ hững của người con trai tên Tâm, nhân vật người mẹ vẫn hiện lên với những nét tính cách đáng trân trọng và lay động lòng người. Trước hết, người mẹ hiện lên là một người phụ nữ nghèo khó, vất vả. Chi tiết "vẫn mặc cái bộ áo cũ kỹ như mấy năm về trước", "cái nhà cũ vẫn như trước, không thay đổi, chỉ có sụp thấp hơn một chút và mái gianh xơ xác hơn" đã gợi lên một cuộc sống lam lũ, thiếu thốn về vật chất. Sự tần tảo của bà trong việc nuôi dạy Tâm "nên người" được ngầm hiểu qua sự thành đạt của anh ở thành phố. Tuy nhiên, sự thành đạt ấy lại đi kèm với sự vô tâm, lạnh nhạt của người con, càng làm nổi bật sự hy sinh thầm lặng của mẹ. Điểm sáng trong hình ảnh người mẹ chính là tình yêu thương con sâu sắc và lòng vị tha vô bờ bến. Dù sáu năm trời Tâm biền biệt, không một lời hỏi thăm, bà vẫn luôn dõi theo tin tức về con qua lời kể của người khác ("Năm ngoái bác Cả lên tỉnh về bảo cậu ốm. Tôi lo quá..."). Khi Tâm trở về, câu nói nghẹn ngào "Con đã về đấy ư?" chứa đựng bao nhiêu nhớ mong, bao nhiêu tủi hờn dồn nén. Bà không hề trách móc sự vô tâm của con mà chỉ quan tâm đến sức khỏe của anh ("Bây giờ cậu đã khỏe hẳn chưa?"). Thậm chí, bà còn âu yếm nhìn con, săn sóc hỏi han, thể hiện một tấm lòng bao dung, độ lượng hiếm có. Sự cô đơn và nỗi buồn thầm lặng cũng là một khía cạnh đáng chú ý trong hình ảnh người mẹ. Sáu năm con trai đi biệt xứ, bà sống một mình trong căn nhà cũ kỹ. Chi tiết "Bà ở đây một mình thôi à?" và sự ấp úng "Vẫn có con Trinh nó ở đây với tôi" cho thấy sự cô đơn sâu sắc của bà, dù có người cháu họ dở hơi ở cùng. Việc bà thỉnh thoảng nhắc đến Tâm với cô Trinh cũng thể hiện nỗi nhớ con da diết, một niềm hy vọng mong manh về sự trở về của con. Không chỉ yêu thương con, người mẹ còn là một người phụ nữ nhân hậu, giàu tình thương xóm làng. Bà quan tâm đến những người xung quanh, như việc kể về cô Trinh đảm đang, chịu khó. Sự quan tâm của bà đến những "việc lạ" ở làng, dù Tâm dửng dưng không để ý, cho thấy một tấm lòng gắn bó với quê hương, với những người thân thuộc. Tuy nhiên, đáp lại tình yêu thương và sự quan tâm của mẹ, Tâm lại tỏ ra lạnh lùng, thờ ơ. Những câu trả lời qua loa, sự vội vã muốn rời đi và hành động đưa tiền một cách kiêu ngạo đã làm nổi bật sự đối lập giữa tấm lòng bao la của mẹ và sự vô tâm, ích kỷ của con. Cái "nhẹ hẳn mình" của Tâm khi ra khỏi nhà cho thấy sự vô cảm đến đáng trách, càng làm sâu sắc thêm nỗi buồn và sự cô đơn của người mẹ. Tóm lại, qua đoạn trích "Trở về", Thạch Lam đã vẽ nên một hình ảnh người mẹ Việt Nam truyền thống với những phẩm chất cao đẹp: giàu tình yêu thương, đức hy sinh, lòng nhân hậu và sự chịu đựng thầm lặng. Dù sống trong nghèo khó và cô đơn, tình mẫu tử thiêng liêng của bà vẫn tỏa sáng, nhưng đồng thời cũng gợi lên một nỗi xót xa trước sự vô tâm, hờ hững của người con, một hiện thực đáng suy ngẫm trong xã hội hiện đại.

Câu 1. Nghị luận kết hợp biểu cảm. Câu 2. Lối sống thụ động, trì trệ và lối sống tích cực, hướng tới sự vận động. Câu 3. So sánh. Tác dụng: Làm hình ảnh trừu tượng cụ thể, sinh động, tăng tính biểu cảm, nhấn mạnh sự vận động và khát vọng của tuổi trẻ. Câu 4. Sự thôi thúc, khát vọng nội tại hướng tới sự vận động và trải nghiệm. Câu 5. Bài học về ý nghĩa của sự vận động và khát vọng vươn lên. Vì cuộc sống là dòng chảy, cần vận động để không trì trệ và đạt được ý nghĩa.