

ĐỖ VÂN ANH
Giới thiệu về bản thân



































Bài 2:
Vì trong rễ cây đậu nành có sự cộng sinh giữa rễ cây và vi khuẩn Rhizobium. Quá trình này dựa trên nguyên tắc vi khuẩn chuyển hoá N2 phân tử sang dạng NH3 vừa cung cấp cho đất, vừa cung cấp cho cây. Vì thế chuyển sang trồng đậu nành trên mảnh đất đã trồng khoai trước đó thì sẽ bổ sung và duy trì lượng nitrogen trong đất.
Bài 1:
a. -Môi trường nuôi cấy không liên tục là được bổ sung chất dinh dưỡng mới, cũng không được lấy đi các sản phẩm chuyển hoá vật chất
-Môi trường nuôi cây liên tục là trong quá trình nuôi cấy thường xuyên bổ sung chất dinh dưỡng, đồng thời lấy đi lượng dịch nuôi cây tương đương
b. -Sự sinh trưởng của các pha trong môi trường nuôi cấy không liên tục
Gồm 4 pha:
+) Pha tiềm phát
+) Pha luỹ thừa
+) Pha cân bằng
+) Pha suy vong
Câu 1:
Mùa thu Hà Nội trong đoạn thơ của Hoàng Cát hiện lên với vẻ đẹp dịu dàng, man mác buồn và đầy chất thơ. Gió heo may se se lạnh, lá vàng xào xạc lùa trên phố tạo nên một không gian thu đặc trưng, nhẹ nhàng và sâu lắng. Những hình ảnh ấy gợi lên cảm giác bâng khuâng, gợi nhớ những hoài niệm xa xăm trong lòng người. Chiều thu nhạt nắng, con người như nhỏ bé, trầm tư giữa thiên nhiên đang chuyển mình, để nỗi nhớ người xa thêm da diết. Mùa thu Hà Nội còn hiện lên qua hình ảnh hàng sấu với “quả sót rụng vu vơ”, như những dấu vết của mùa hè còn vương lại, đọng thành một “chùm nắng hạ” trong mùi hương ngọt ngào của đất trời. Thơ Hoàng Cát không chỉ miêu tả vẻ đẹp mùa thu bằng thị giác mà còn khơi gợi xúc cảm qua âm thanh, mùi hương, để mùa thu Hà Nội hiện lên vừa gần gũi vừa sâu sắc, đầy chất tình. Qua đó, tác giả đã gửi gắm tình yêu tha thiết đối với mảnh đất kinh kỳ, nơi mỗi mùa thu đi qua đều để lại trong lòng người những dư vị không thể nào quên.
Câu 2:
Trong thời đại hiện nay, trí tuệ nhân tạo (AI) đang phát triển với tốc độ chóng mặt, làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống con người. Từ những lĩnh vực như y tế, giáo dục, kinh tế đến văn hóa, giải trí, AI đều để lại dấu ấn mạnh mẽ. Sự phát triển “như vũ bão” của AI không chỉ phản ánh những bước tiến kỳ diệu của khoa học công nghệ mà còn đặt ra nhiều cơ hội và thách thức lớn lao cho nhân loại.
Trí tuệ nhân tạo được hiểu là khả năng của máy móc trong việc thực hiện các tác vụ mà trước đây đòi hỏi trí thông minh của con người như học tập, lý luận, nhận thức và giải quyết vấn đề. Ngày nay, AI hiện diện trong rất nhiều ứng dụng quen thuộc: trợ lý ảo, hệ thống dịch thuật tự động, xe tự lái, y học chuẩn đoán bệnh chính xác cao hay những mô hình sáng tạo nội dung. Với tốc độ phát triển như hiện nay, AI không chỉ hỗ trợ con người trong công việc mà còn dần đảm nhiệm những vai trò phức tạp hơn, góp phần nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí và tối ưu hóa nguồn lực xã hội.Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn, sự phát triển nhanh chóng của AI cũng làm dấy lên không ít lo ngại. Trước hết, việc máy móc thay thế con người trong nhiều lĩnh vực đang đặt ra nguy cơ mất việc làm cho một bộ phận lao động, đặc biệt là những công việc đơn giản, lặp lại. Đồng thời, AI cũng khiến con người đối mặt với những vấn đề đạo đức, an ninh mạng, quyền riêng tư và nguy cơ bị lạm dụng vào mục đích xấu. Khi AI càng thông minh, câu hỏi về quyền kiểm soát, giới hạn phát triển và trách nhiệm đạo đức càng trở nên cấp bách.Dù vậy, không thể phủ nhận rằng AI là kết quả của trí tuệ và khát vọng vươn lên không ngừng của con người. Điều quan trọng là chúng ta cần chủ động nắm bắt, điều chỉnh và định hướng sự phát triển của AI một cách đúng đắn. Thay vì lo sợ, con người cần trang bị cho mình những kỹ năng mới, đặc biệt là tư duy sáng tạo, khả năng thích ứng và đạo đức nghề nghiệp. Chính sự cân bằng giữa phát triển công nghệ và giữ gìn những giá trị nhân văn sẽ giúp AI trở thành công cụ phục vụ cho lợi ích chung của nhân loại.
Tóm lại, sự phát triển như vũ bão của trí tuệ nhân tạo vừa mở ra kỷ nguyên mới đầy tiềm năng, vừa thách thức con người phải thay đổi để thích nghi. Chúng ta không thể ngăn cản tiến trình ấy, nhưng hoàn toàn có thể làm chủ nó bằng tri thức, trách nhiệm và lòng nhân ái. AI sẽ thực sự trở thành cánh tay nối dài của trí tuệ con người, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách khôn ngoan và có định hướng.
Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là: biểu cảm.
Câu 2:
Những từ ngữ, hình ảnh thể hiện năm khốn khó trong đoạn trích là:
- “lụt”, “sụt lở”, “gánh gồng”, “chịu đói”, “ngồi co ro bậu cửa”, “có gì nấu đâu mà nhóm lửa”.
Câu 3:
Biện pháp tu từ được sử dụng trong hai dòng thơ:
-Biện pháp: Ẩn dụ và nhân hóa.
-Tác dụng: Cụm từ “tiếng lòng con” là ẩn dụ cho nỗi nhớ, niềm thương yêu và tiếng gọi tha thiết của người con đối với mẹ. Việc nhân hóa “tiếng lòng” như một thực thể có thể “vang vọng” đã nhấn mạnh nỗi nhớ thương sâu sắc, nỗi đau bất lực khi người con không thể nối kết được với người mẹ đã khuất.
Câu 4:
-Hiểu nội dung dòng thơ “Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn” như sau:
+) Hình ảnh người mẹ hiện lên lam lũ, nhọc nhằn, vội vã trong buổi chiều tàn. Từ “xộc xệch” diễn tả dáng vẻ vất vả, mệt mỏi và những gánh nặng cuộc sống oằn vai mẹ, thể hiện cuộc đời cơ cực của mẹ trong những năm tháng khó khăn.
Câu 5:
* Thông điệp tâm đắc nhất rút ra từ đoạn trích:
- Hãy luôn trân trọng, yêu thương cha mẹ khi còn có thể.
+) Vì đoạn thơ gợi lên những ký ức nghèo khó, vất vả của mẹ cùng sự ân hận, tiếc nuối khi người mẹ đã khuất. Nó nhắc nhở chúng ta rằng tình cảm gia đình thiêng liêng, không thể thay thế, và mỗi người cần biết quý trọng, thể hiện tình yêu thương với cha mẹ khi còn cơ hội.
Câu 1:
Tính sáng tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với thể hệ trẻ trong bối cảnh xã hội hiện đại không ngừng thay đổi. Sáng tạo không chỉ giúp các bạn trẻ phát triển tư duy độc lập. Trong thời đại công nghệ số, khả năng sáng tạo còn là chìa khoá giúp thế hệ trẻ tạo ra những giá trị mới, giải quyết các vấn đề phức tạp và đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của xã hội. Không dừng lại ở việc phát minh hay đổi mới ở việc phát minh hay đổi mới trong lĩnh vực khoa học, sáng tạo còn thể hiện ở cách sống, cách học tập và làm việc hiệu quả hơn. Một người trẻ biết vận dụng óc sáng tạo sẽ dễ dàng khẳng định bản thân, tạo dấu ấn riêng và vươn xa hơn trong sự nghiệp. Vì vậy, rèn luyện tính sáng tạo là yêu cầu thiết yếu, đòi hỏi các bạn trẻ phải không ngừng học hỏi, dám nghĩ khác, làm khác bà kiên trì theo đuổi những ý tưởng mới mẻ của mình.
Câu 2:
Nguyễn Ngọc Tư là một trong những cây bút nổi tiếng của vùng đất Nam Bộ đã mang đến cho người đọc những câu chuyện đời thường mộc mạc mà sâu sắc. Qua truyện ngắn "Biển người mênh mông", hình ảnh nhân vật Phi và ông Sáu Đèo đã khắc hoạ đậm nét vẻ đẹp của con người Nam Bộ vừa giản dị, chân thành, giàu lòng yêu thương và đầy nghị lực giữa những nhọc nhằn của cuộc đời.
Phi là một chàng trai lớn lên trong thiếu thốn tình yêu thương gia đình. Cảnh đời của Phi không trọn vẹn không cha, mẹ đi lấy chồng, chỉ có bà ngoại là người duy nhất yêu thương, chăm sóc anh. Khi ngoại mất, Phí trở thành một người đàn ông cô đơn, sống lôi thôi, chênh vênh giữa dòng đời. Thế nhưng, đằng sau dáng vẻ xuề xoà, lôi thôi ấy là một tấm lòng chân thành, hiền hậu. Phi không trách má, không oán cha, lặng lẽ sống cuộc đời của mình, tự lập, cố gắng học hành, làm thêm kiếm sống. Cách Phi nhận nuôi con bìm bịp của ông Sáu Đèo cũng cho thấy ở anh sự ân tình, trước sau như một. Phi đại diện cho những con người Nam Bộ tùy chịu nhiều thiệt thòi nhưng vẫn sống tử tế, chân chất, không than vãn. Ông Sáu là hình ảnh người Nam Bộ chính gốc vừa hiền lành, mộc mạc và nghĩa tình sâu nặng. Cả đời ông là hành trình lênh đênh tìm kiếm người vợ đã rời bỏ mình sau những tháng ngày cơ cực. Dù cuộc đời đã quá nhiều mất mát, ông Sáu vẫn giữ vẹn nguyên lòng chung thủy, khát khao gặp lại người xưa chỉ để "xin lỗi". Ông sống nghèo khó, đơn sơ nhưng đầy yêu thương và trách nhiệm, kể cả với một con bìm bịp nhỏ bé. Trước khi đi tiếp hành trình tìm vợ, ông đã gửi gắm con vật cho Phi với một niềm tin tưởng lớn lao bởi ông biết, giữa biển người mênh mông ấy, vẫn còn những tấm lòng tử tế như chàng trai trẻ kia. Ông Sáu Đèo chính là biểu tượng cho sự chung thủy, lòng kiên nhẫn và đức tính bền bỉ nhưng phẩm chất rất đẹp của con người Nam Bộ. Qua hình ảnh Phi và ông Sáu Đèo, Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện thành công vẻ đẹp tâm hồn của người Nam Bộ bình dị mà sâu sắc, chịu thương chịu khó mà vẫn giữ được sự lạc quan, nhân hậu trong tâm hồn. Trong cái khắc nghiệt của cuộc sống, họ không đánh mất sự chân thành, lòng tin và tình người điều làm nên nét riêng rất đáng quý của đất này.
"Biển người mênh mông" không chỉ kể một câu chuyện buồn, mà còn là bài ca ngợi vẻ đẹp bình dị mà kiên cường của con người Nam Bộ những con người lặng lẽ sống, lặng lẽ yêu thương và lặng lẽ bền bỉ giữa mênh mông cuộc đời.
Câu 1: Kiểu văn bản của ngữ liệu trên là văn bản thuyết minh
Câu 2: Một số hình ảnh chi tiết cho thấy cách giao thương ,mua bán thú vị trên trợ nổi là:
-Người bán và người mua đi chuyển bằng xuồng, ghe trên sông.
-Sử dụng "cây bẹo" để giới thiệu sản phẩm.
-Cây bẹo treo trái cây, rau củ hoặc thậm trí tấm lá để bán ghế.
-Dùng âm thanh như tiếng kèn, tiếng rao mời để thu hút khách.
-Các loại xuồng, ghê lên lỏi khéo léo mà ít khi va chạm.
Câu3: Tác dụng của việc sử dụng tên các địa danh trong văn bản trên là:
-Làm cho văn bản thêm cụ thể, chân thực và sinh động. Giúp người đọc hình dung rõ nét vùng miền gắn với văn hoá trợ nổi. Tăng tính thuyết phục, tạo cảm giác gần gũi với đời sống thực tế.
Câu4: Nêu tác dụng của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn bản trên là:
-Các phương tiện như "cây bẹo", âm thanh từ kèn giúp người bán giới thiệu hàng hoá nhanh chóng, dễ nhận biết từ xa.
-Tạo nên nét văn bản giao thương độc đáo, sinh động và đậm đà bản sắc miền Tây sông nước.
-Góp phần làm cho chợ nổi trở nên hấp dẫn, thứ hút khách tham quan, mua sắm.
Câu 5: Suy nghĩ về vai trò của chợ nổi đối với đời sống của người dân miền Tây là:
-Chợ nổi không chỉ là nơi buôn bán, trao đổi hàng mà còn là nét đẹp văn hoá đặc trưng, phản ánh đời sống sinh hoạt, phòng tục của người dân.
-Chợ nổi còn góp phần phát triển du lịch, bảo tồn giá trị truyền thống, đổng thời giao lưu, trao đổi trên sông nước.
-Sự tồn tại và phát triển của chợ nổi thể hiện sự thích nghi hoạt động và sáng tạo của người dân trước điều kiện tự nhiên đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long.