

Lê Đắc Thế Anh
Giới thiệu về bản thân



































Trong suốt những năm tháng cắp sách đến trường, em đã có cơ hội được gặp gỡ và học hỏi từ rất nhiều thầy cô giáo. Mỗi người đều mang một vẻ đẹp riêng, một phong cách giảng dạy khác nhau, nhưng trong trái tim em, cô Ngọc, giáo viên chủ nhiệm của lớp em năm lớp 4 và lớp 5, luôn là người mà em yêu quý và kính trọng nhất.
Ấn tượng đầu tiên của em về cô Lan là một người phụ nữ có dáng người thanh mảnh, mái tóc vàng sẫm dài thường được búi gọn được búi gọn gàng. Cô có đôi mắt sáng, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp, truyền cảm. Mỗi khi cô cất tiếng giảng bài, cả lớp em đều như bị cuốn hút vào những câu chuyện, những bài giảng đầy thú vị.
Em còn nhớ như in buổi học đầu tiên của năm lớp 4, khi cô Ngọc bước vào lớp với một nụ cười tươi rói. Cô tự giới thiệu về mình và nói rằng cô rất vui khi được đồng hành cùng chúng em trong năm học này. Sau đó, cô bắt đầu giảng bài với một phong thái tự tin, cuốn hút. Cô không chỉ truyền đạt kiến thức một cách khô khan mà còn lồng ghép vào đó những câu chuyện, những ví dụ sinh động, giúp chúng em dễ hiểu và dễ nhớ bài hơn.
Cô Ngọc không chỉ là một người thầy giỏi mà còn là một người bạn, một người chị luôn quan tâm, chia sẻ với chúng em. Mỗi khi em gặp khó khăn trong học tập hay có chuyện buồn trong cuộc sống, em đều tìm đến cô để tâm sự. Cô luôn lắng nghe em một cách kiên nhẫn và đưa ra cho em những lời khuyên chân thành, giúp em vượt qua những khó khăn đó.
Em còn nhớ một lần, em bị điểm kém môn Toán, em cảm thấy rất buồn và thất vọng về bản thân mình. Cô Ngọc đã gọi em lên bàn giáo viên và nhẹ nhàng hỏi han em. Cô không hề trách mắng em mà còn động viên, khích lệ em cố gắng hơn nữa. Cô nói rằng ai cũng có những lúc mắc sai lầm, quan trọng là phải biết đứng lên và sửa chữa. Những lời nói của cô đã giúp em lấy lại được sự tự tin và quyết tâm học tập tốt hơn.
Cô Ngọc là một giáo viên rất yêu nghề và tận tâm với học sinh. Cô luôn cố gắng tìm tòi những phương pháp giảng dạy mới, sáng tạo để giúp chúng em học tập hiệu quả hơn. Cô thường xuyên tổ chức những hoạt động ngoại khóa, những buổi thảo luận nhóm để chúng em có cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Cô cũng luôn tạo điều kiện để chúng em phát huy khả năng sáng tạo và tư duy độc lập.
Cô Ngọc đã có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời em. Cô không chỉ giúp em yêu thích môn Văn hơn mà còn truyền cảm hứng cho em trong học tập và cuộc sống. Cô đã dạy cho em những bài học quý giá về đạo đức, nhân cách, về lòng yêu thương con người và sự trân trọng cuộc sống. Cô đã định hướng cho em trên con đường tương lai, giúp em nhận ra được những giá trị đích thực của cuộc sống.
Em vô cùng yêu quý và kính trọng cô Ngọc. Em biết rằng, dù sau này có đi đâu, về đâu, em cũng sẽ không bao giờ quên được những kỷ niệm đẹp về cô. Em mong rằng cô sẽ luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Em hứa sẽ cố gắng học tập, rèn luyện thật tốt để không phụ lòng cô.
Trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sáng ngời như một vầng thái dương. Người không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già kính yêu của dân tộc mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, ý chí kiên cường và tinh thần hy sinh quên mình. Nhắc đến Bác, em không khỏi xúc động và ngưỡng mộ vô cùng, đặc biệt là khi nghĩ về sự kiện Người rời bến cảng Nhà Rồng, ra đi tìm đường cứu nước, mở ra một chương mới cho lịch sử dân tộc.
Hình ảnh Bác Hồ hiện lên thật giản dị và gần gũi: vầng trán rộng, đôi mắt sáng ngời, nụ cười hiền hậu luôn nở trên môi. Chiếc áo kaki bạc màu, đôi dép cao su đã trở thành biểu tượng quen thuộc, gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ của Người. Bác đã từng bôn ba khắp năm châu bốn biển, trải qua biết bao khó khăn, thiếu thốn để tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Nghĩ đến những hy sinh thầm lặng của Bác, lòng tôi trào dâng một niềm xúc động nghẹn ngào. Người đã dành cả cuộc đời mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta chìm trong đêm trường nô lệ dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Nhân dân ta phải chịu đựng cuộc sống lầm than, đói khổ, bị áp bức, bóc lột tàn tệ. Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, đồng bào ta phải sống trong cảnh lầm than, tủi nhục, Bác Hồ đã vô cùng đau xót. Người đã sớm nhận ra rằng, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc thì phải tìm ra một con đường đúng đắn. Và thế là, vào một ngày hè tháng 6 năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã quyết định rời bỏ quê hương, lên con tàu Amiral Latouche Tréville để bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi, e sông". Quyết định ra đi của Bác là một sự hy sinh vô cùng lớn lao. Người đã phải rời xa gia đình, quê hương, chấp nhận mọi gian khổ, thử thách để tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Hành động đó thể hiện một ý chí quyết tâm sắt đá, một lòng yêu nước nồng nàn và một tinh thần dũng cảm phi thường. Như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Thủa ấy Bác Hồ còn trẻ lắm Đôi mắt đen tròn sáng long lanh Bác bước lên tàu đi cứu nước Trong tim ôm cả núi sông xanh”
Cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ là một tấm gương sáng ngời để chúng ta học tập và noi theo. Người đã dạy cho chúng ta bài học về lòng yêu nước, tinh thần tự học, ý chí vươn lên và sự giản dị, khiêm tốn. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta cần phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh. Trong trái tim tôi, Bác Hồ mãi là một người con vĩ đại của dân tộc, một vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân. Tình cảm của tôi dành cho Bác là vô bờ bến, là sự kính trọng, ngưỡng mộ và biết ơn sâu sắc. Tôi tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta sẽ ngày càng phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện được ước nguyện của Bác Hồ kính yêu.
Chiến tranh đã qua đi nhưng hậu quả mà nó để lại thì vẫn còn mãi. Một trong những hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại đó là sự cô đơn, bơ vơ, chờ đợi mòn mỏi của những người phụ nữ có chồng đi chiến trận và ở lại vĩnh viễn nơi chiến trường xa xôi kia.
Dì Bảy trong bài tản văn “ Người ngồi đợi trước hiên nhà ” đã để lại trong em nhiều sự thương mến và cảm phục. Dì lấy chồng khi chỉ mới 20 tuổi. Dượng Bảy lại phải đi tập kết và chiến đấu. Vậy là từ ngày cưới, cả hai vợ chồng dì chưa được ở cạnh nhau bao lâu. Họ gặp nhau chỉ qua những bức thư. 20 năm sau, Dượng Bảy mới có thể nhờ người gửi chiếc nón bài thơ cho dì làm quà và để chứng tỏ tình cảm của mình, để an ủi những ngày chờ mong dài đằng đẵng. Thế nhưng, trước khi chiến tranh kết thúc khoảng mươi ngày, dượng Bảy đã mãi mãi ra đi nơi chiến trường ở Xuân Lộc, dì Bảy đã trở thành người phụ nữ góa chồng. Vậy là suốt hơn 20 năm chờ đợi, biết bao thương nhớ, buồn tủi, biết bao là những nỗi lo lắng, bồn chồn, cuối cùng dì vẫn không đợi được một hạnh phúc trọn vẹn cho bản thân.
Mất chồng, dì Bảy vẫn cứ lầm lũi ngồi bên bậc thềm, nhìn ra con ngõ như trông đợi điều gì. Dì Bảy đã phải hi sinh hạnh phúc cá nhân mình vì nghĩa lớn. Em biết rằng, không chỉ có dì Bảy, mà còn có rất nhiều người phụ nữ trên dải đất hình chữ S này cũng chung cảnh ngộ như dì. Họ đều đã hi sinh thầm lặng, cao cả cho cuộc kháng chiến, để đất nước được thống nhất và phát triển.
Từ đó, chúng ta thấy rằng sự hy sinh thầm lặng, cao cả của những người phụ nữ trong các cuộc kháng chiến thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng. Từ đó, mỗi người cần có thái độ tôn trọng, biết ơn những người phụ nữ như dì Bảy và làm những điều có ý nghĩa để đền đáp lại công ơn đó.
Tác phẩm đã phản ánh sự khốc liệt của chiến tranh và ca ngợi những người phụ nữ như dì Bảy. Với ngòi bút tinh tế, tác giả Huỳnh Như Phương đã để lại cho người đọc niềm cảm thương, rung động sâu sắc với số phận của nhân vật dì Bảy Hình ảnh dì Bảy cũng chính là tấm gương để thế hệ hôm nay ghi nhớ công ơn của các thế hệ trước. Chúng ta cần biết trân trọng, sống ý nghĩa hơn cho xứng đáng với sự hy sinh đó.