Nguyễn Minh Cảnh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Minh Cảnh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Cây họ đậu có thể tăng hàm lượng nitrogen trong đất vì:

+ Các loại đậu lấy nitrogen từ không khí chuyển hóa thành amoniac, amoniac là dạng mà cây trồng có thể được chuyển đổi ngay lập tức thành protein giúp cây phát triển. Các mô đặc biệt trên rễ cây họ đậu cung cấp một nơi trú ẩn an toàn cho hàng ngàn vi khuẩn cố định nitrogen.

+ Những vi khuẩn này cung cấp nitrogen dồi dào ở dạng hữu ích nhất cho sự phát triển của thực vật. Sau khi vụ mùa được thu hoạch, phế phẩm của chúng phân hủy và cung cấp nitrogen hữu ích cho đất để các cây khác có thể sử dụng nó.

=> Vì thế, những cây trồng họ đậu này thậm chí còn như một loại phân xanh, bằng cách cày những cây họ đậu vào đất, chúng sẽ cung cấp nhiều nitrogen hơn cho đất trồng.

a. Môi trường nuôi cấy không liên tục là môi trường nuôi cấy không được bổ sung chất dinh dưỡng mới, cũng không được lấy đi các sản phẩm chuyển hóa vật chất.

b. VSV trải qua 4 giai đoạn:

  • Pha tiềm phát (hay còn gọi là pha lag): Giới hạn có thể tính từ khi vi sinh vật được cấy vào bình cho đến khi chúng bắt đầu quá trình sinh trưởng. Vi sinh vật thích nghi với môi trường, giúp tổng hợp vật chất để chuẩn bị cho quá trình phân bào.
  • Pha lũy thừa (hay có tên gọi khác là pha log-pha cấp số): Tại pha này, vi sinh vật sẽ diễn ra quá trình phân chia một cách vô cùng mạnh mẽ, số lượng tế bào gia tăng dần theo cấp lũy thừa và đạt sẽ đến cực đại. Thời gian thế hệ đạt được xem như một hằng số.
  • Pha cân bằng: Số lượng tế bào khi đạt cực đại và không có dấu hiệu thay đổi theo thời gian, tốc độ sinh trưởng hay quá trình trao đổi chất của vi sinh vật giảm dần. Do chất dinh dưỡng bắt đầu có dấu hiệu cạn kiệt, chất độc hại gia tăng trong môi trường nuôi cấy, từ đó một số tế bào bắt đầu đi vào quá trình phân hủy.
  • Pha suy vong: Kiểm soát số lượng tế bào trong quần thể nhận thấy số lượng giảm ngày càng nhiều do quá trình phân hủy, chất độc hại tăng, chất dinh dưỡng cạn kiệt.


Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là nghị luận.

Câu 2: 

Chủ thể bài viết là vua Lê Lợi. 
Câu 3:

         Mục đích chính của văn bản: Kêu gọi việc tiến cử và tự tiến cử người hiền tài để giúp vua Lê Lợi xây dựng đất nước. Những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản: Các văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên đều phải cử người có tài, bất kể là ở triều đình hay thôn dã, đã xuất sĩ hay chưa. Người có tài kinh luân mà bị khuất hoặc hào kiệt náu mình nơi làng quê, binh lính cũng có thể tự tiến cử. Những người tiến cử được hiền tài sẽ được thưởng, tùy theo tài năng của người được tiến cử. 
Câu 4:

        Dẫn chứng minh chứng cho luận điểm: Người viết nêu ra những tấm gương điển hình từ thời Hán và Đường: Tiêu Hà tiến cử Tào Tham, Nguy Vô Tri tiến cử Trần Bình.  Địch Nhân Kiệt tiến cử Trương Cửu Linh, Tiêu Tung tiến cử Hàn Hưu. Nhận xét về cách nêu dẫn chứng: Các dẫn chứng được chọn lọc kỹ lưỡng, có tính điển hình cao và phù hợp với bối cảnh nghị luận. Tác giả không chỉ kể tên mà còn nhấn mạnh vai trò của việc tiến cử trong sự thành công của các triều đại, từ đó tăng tính thuyết phục.

Câu 5: 

         Nhận xét về phẩm chất của chủ thể bài viết:Có trách nhiệm: Vua Lê Lợi tự nhận trách nhiệm nặng nề trong việc trị quốc và luôn mong muốn tìm người tài giúp sức. Khiêm tốn và cầu thị: Ông không câu nệ tiểu tiết, sẵn sàng chấp nhận cả những người tự tiến cử. Sáng suốt và công bằng: Đưa ra chính sách thưởng phạt rõ ràng trong việc tiến cử hiền tài, dựa trên tài năng và đức độ. Quan tâm đến hiền tài: Hiểu rõ vai trò quan trọng của nhân tài trong việc xây dựng đất nước và sẵn lòng trọng dụng người tài từ mọi tầng lớp.
 

 Câu 1:                                                                                             .               Nguyễn Trãi là nhà văn lớn trong lịch sử Việt Nam.Thơ văn của ông là sự kết tinh nghệ thuật của nhiều thế kỉ văn học Việt Nam. Ông có công lớn trong việc hoàn thiện, phát triển, khởi đầu nhiều thể loại văn học. Ông là một nhà văn chính luận xuất sắc, đưa thể văn nghị luận ở giai đoạn này đạt đến độ hoàn thiện. Với thể phú, ngòi bút của Nguyễn Trãi cũng đã đạt được những thành công lớn. Về thơ, Nguyễn Trãi là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Với Ức Trai thi tập, ông đã đưa thơ chữ Hán của Việt Nam đạt đến độ nhuần nhị, tạo ra một thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trí tuệ, hào hùng, lại vừa trữ tình, lãng mạn. Đặc biệt, với tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã khẳng định tiếng Việt là một ngôn ngữ văn học có khả năng phản ánh sâu sắc thế giới nội tâm của con người, cũng như phản ánh chân thực đời sống xã hội. Ông đem lại cho thơ Nôm một hệ thống thẩm mĩ mới, đưa vào thơ tục ngữ, ngôn ngữ và hình ảnh đời thường. Trong Quốc âm thi tập có tới 186 bài được viết theo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, cho thấy nhà thơ rất có ý thức trong việc sáng tạo một “lối thơ riêng của Việt Nam”. Những sự vật bình dị, dân dã, đời thường như quả núc nác, lảnh mùng tơi, bè rau muống, con đòng đong,... cũng đều được Nguyễn Trãi đưa vào thơ một cách tự nhiên, tạo nên những rung động thẩm mĩ mới.                                 Câu 2:                                                                                     

              Để có được một xã hội như hiện nay, con người đã cố gắng rất nhiều, sử dụng khối óc, chất xám của mình để làm giàu cho xã hội. Tuy nhiên, một hiện tượng vô cùng đáng buồn hiện nay đó chính là hiện tượng chảy máu chất xám. Hiện tượng chảy máu chất xám là cách gọi ẩn dụ để chỉ tình trạng nhân tài, trí thức – “chất xám” Việt Nam đang có xu hướng định cư và làm việc, phục vụ hoàn toàn cho lợi ích của nước ngoài thay vì cống hiến cho dân tộc. Bên cạnh đó, chảy máu chất xám còn được hiểu là việc những ý tưởng, sáng kiến của con người bị sao chép và lan truyền một cách tràn lan, vô tội vạ trên thị trường mà không có sự kiểm soát về chất lượng. Một thực trạng đáng buồn hiện nay đó chính là việc nhiều người tài giỏi sau khi du học ở nước ngoài đã quyết định định cư luôn tại quốc gia đó và làm việc, tạo ra của cải, vật chất cho đất nước họ trong khi đất nước mình đang cần, “thèm khát” những nhân tài. Một ví dụ điển hình phải kể đến đó là chương trình Đường lên đỉnh Olympia, đa số những quán quân sau khi qua nước ngoài du học đều chọn ở lại nước ngoài định cư và làm việc,… Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này đầu tiên phải kể đến là do ý thức chủ quan của con người, chúng ta muốn sống trong một môi trường tốt hơn, đầy đủ tiện nghi hơn,… mà quên đi cội nguồn của mình. Nguyên nhân khách quan là do cơ sở vật chất nước nhà chưa đủ để đáp ứng nhu cầu làm việc, nghiên cứu của con người; chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với công sức,… Để khắc phục tình trạng này trước hết mỗi con người cần có nhận thức đúng đắn, sẵn sàng cống hiến cho nước nhà, bỏ qua những lợi ích cá nhân. Nhà nước cần có những biện pháp đặc biệt nhằm chiêu mộ nhân tài về nước, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đạt chuẩn và trả công cho họ một cách xứng đáng. Mỗi người một hành động nhỏ nhưng tạo được giá trị to lớn, chúng ta hãy sống và cống hiến vì một đất nước giàu đẹp, văn minh hơn.   

   Câu 1:                                                         

             Cuộc sống ngoài kia luôn có những giông bão mà bạn khó có thể biết trước được. Nhưng sống thế nào là do bạn chọn và làm chủ. Chính vì thế, chúng ta có thể khẳng định: sống ở thế chủ động có vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cuộc sống của mỗi người.

           Sống ở thế chủ động là việc mỗi người luôn biết làm chủ cuộc sống của mình, đề ra mục tiêu và thực hiện chúng một cách hoàn thiện, không để người khác phải nhắc nhở những công việc liên quan đến bản thân mình. Sống ở thế chủ động có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống con người, nó làm cho con người năng động hơn, sáng tạo hơn, giúp ích rất nhiều cho cuộc sống. Chủ động là tự hành động, không bị chi phối bởi người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài. Sống ở thế chủ động là hành động độc lập với hoàn cảnh xung quanh, làm chủ được tình thế, dám nghĩ, dám hành động trên tất cả mọi lĩnh vực, chủ động tìm tòi, chủ động đề nghị, chủ động dấn thân…Sống chủ động khiến con người tự tin, bản lĩnh, linh hoạt ứng xử trong mọi tình huống để vượt qua khó khăn, hoàn thành mục tiêu, khát vọng, ước mơ. Tuổi trẻ chủ động sẽ không ngừng có được cơ hội mới khẳng định bản thân, đạt được thành công.

             Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phê phán những bạn trẻ sống dựa dẫm, thiếu tự tin, thụ động, phó mặc cho số phận của mình và những bạn trẻ sống không có ước mơ, hoài bão. Sống ở thế chủ động cần thiết trong môi trường xã hội hôm nay, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước. Mỗi chúng ta hãy rèn luyện bản thân bằng cách sống có ước mơ, tích cực trau dồi kiến thức cũng như đạo đức để có thể chạm tay vào ước mơ đó.

           Cuộc sống luôn cho chúng ta nhiều cơ hội quý báu, điều quan trọng là ta phải chủ động nắm giữ những cơ hội đó để tạo ra những giá trị tốt đẹp cho bản thân, cho xã hội. Hãy sống hết mình để thế cuộc sống thật tươi đẹp, đáng sống.

 Câu 2:                                                      

               Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất công nên ông đã cáo quan về ở ấn; sống cuộc sống an nhàn, thanh thơi. Ông còn được biết đến là nhà thơ nổi tiếng với hai tập thơ tiếng Hán “Bạch Vân am thi tập” và tập thơ tiếng Nôm “Bạch Vân  quốc ngữ thi”. Bài thơ “Nhàn “được rút trong tập thơ “ Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ đựợc viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật, là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui , an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.

            Xuyên suốt bài thơ “Nhàn” là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ vơi 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.

 

           Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đề rất mộc mạc:

Một mai một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Với phép lăp “một”-“một” đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, dù một mình nhưng không hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ. “Một cuốc”, “một cần câu” gợi lên sự bình dị, mộc mạc của một người nông dân chất phác. Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phòng kiến ngày xưa nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này. Động từ “thơ thẩn” ở câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc. Dù ngoai kia người ta vui vẻ nơi chốn đông người thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mặc kệ, vẫn bỏ mặc để “an phận” với cuộc sống của mình hiện tại. Cuộc sống của ông khiến nhiều người ngưỡng mộ.

            Đến hai câu thơ thực tiếp theo càng khắc họa rõ nét hơn chân dung của “lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm”.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Đây có thể xem là tuyên ngôn sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ông tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ đến sống, nhưng đây là cái “dại” khiến nhiều người ghen tỵ và ngưỡng mộ. Ông rất khéo léo trong việc dùng từ ngữ độc đáo, lột tả được hết phong thái của ông. Ông bảo rằng những người chọn chốn quan trường là những người “khôn”. Một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, cũng có thể là khen mình và chê người. Tứ thơ ở hai câu này hoàn toàn đối lập nhau từ ngôn ngữ đến dụng ý “dại” –“khôn”, “vắng vẻ” – “lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở có phải là trốn tránh trách nhiệm với nước hay không? Với thời thế như vậy giờ và với cốt cách của ông thì “nơi vắng vẻ” mới thực sự là nơi để ông sống đến suốt cuộc đời. Một cốt cách thanh cao, một tâm hồn đáng ngưỡng mộ.

Hai câu thơ luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của “lão nông nghèo”. Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an phận và hài long. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau.

              Đến hai câu thơ kết dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bình Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống                                         Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao                                               Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ “tựa chiêm bao”, như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất. Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý chỉ như hư vô mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu theo một cách thầm lặng nhất. Cách so sánh độc đáo đã mang đến cho hai câu kết một tứ thơ hoàn hảo nhất.                                                     Như vậy với 8 câu thơ, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cho đến bây giờ, ông vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ.

Câu 1. Thể thơ: thất ngôn bát cú Đường luật.

Câu 2. Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả: ăn măng trúc, ăn giá, tắm hồ sen, tắm ao.

Câu 3:

– Biện pháp tu từ liệt kê: Một mai, một cuốc, một cần câu.

– Tác dụng:

+ Tạo sự cân xứng, nhịp nhàng, hài hòa cho lời thơ.

+ Nhấn mạnh: sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của tác giả – chọn lối sống tĩnh tại, an nhàn; vừa thể hiện sắc thái trào lộng, mỉa mai đối với cách sống ham danh vọng, phú quý…

Câu 4:

Quan niệm khôn – dại của tác giả:

– Dại: “tìm nơi vắng vẻ” – nơi tĩnh tại của thiên nhiên, thảnh thơi của tâm hồn.

– Khôn: “đến chốn lao xao” – chốn cửa quyền bon chen, thủ đoạn sát phạt.

=> Đó là một cách nói ngược: khôn mà khôn dại, dại mà dại khôn của tác giả.

Câu 5:

 Từ văn bản trên, tôi cảm thấy ông là người sống giản dị, thanh bạch. Là người có trí tuệ, cốt cách thanh cao. Là người bản lĩnh: coi thường danh lợi.