Ngô Bảo Hà

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Ngô Bảo Hà
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Trong hành trình học tập của mình, em đã gặp gỡ và học hỏi từ nhiều thầy cô, nhưng cô giáo Trần Thị Lan luôn để lại trong em những ấn tượng sâu sắc và tốt đẹp. Cô dạy môn Ngữ Văn, và không chỉ là một giáo viên, cô còn là một người truyền cảm hứng, một người bạn lớn luôn đồng hành cùng chúng em.

Cô Lan có dáng người thanh mảnh, mái tóc dài đen nhánh và đôi mắt sáng tràn đầy yêu thương. Mỗi khi cô đứng trên bục giảng, ánh mắt của cô hòa quyện giữa sự kiên định và dịu dàng, làm cho chúng em cảm thấy yên tâm và tin tưởng. Cô luôn bắt đầu tiết học bằng một câu chuyện thú vị, từ đó dẫn dắt chúng em vào những bài học văn chương sâu sắc, khơi dậy đam mê và sự sáng tạo trong từng dòng chữ.

Một điều em luôn quý trọng ở cô là sự tận tâm và chu đáo. Cô luôn lắng nghe ý kiến của học sinh, khuyến khích chúng em nói lên suy nghĩ của mình và không bao giờ chê bai hay đánh giá. Mỗi khi có học sinh chưa hiểu bài, cô đều dành thời gian để giảng giải lại, giúp học sinh vượt qua khó khăn. Những buổi ôn tập ngoài giờ học của cô không chỉ giúp chúng em nắm vững kiến thức mà còn tạo ra không khí học tập vui vẻ, gần gũi.

Em vẫn còn nhớ những giờ học văn mà cô dẫn dắt chúng em qua từng tác phẩm. Cô không chỉ dạy về ngữ pháp hay câu chữ, mà còn giúp chúng em hiểu được tâm tư, tình cảm của nhân vật, từ đó rút ra những bài học quý giá cho bản thân. Cô thường khuyến khích chúng em viết sáng tạo, để mỗi bài thơ, bài văn không chỉ là một bài kiểm tra mà còn là sự thể hiện cá tính và cảm xúc của chính mình.

Cô Lan cũng tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa, từ các buổi đọc sách cho đến các cuộc thi viết, giúp chúng em phát triển kỹ năng và tình yêu với văn học. Những buổi tham quan thư viện hay tìm hiểu về các tác giả nổi tiếng đã mở rộng tầm nhìn của em, giúp em nhận ra văn học không chỉ là môn học mà còn là một phần không thể thiếu trong đời sống.

Kỷ niệm đáng nhớ nhất với cô là khi em tham gia cuộc thi viết văn cấp huyện. Lúc đầu, em rất lo lắng và không tự tin, nhưng cô đã động viên em và giúp em chỉnh sửa bài viết. Sự hỗ trợ và tin tưởng của cô đã mang lại cho em giải thưởng mà em không bao giờ nghĩ đến. Đó là khoảnh khắc mà em cảm thấy mình đã trưởng thành và phát triển rất nhiều nhờ vào cô.

Cô giáo Trần Thị Lan không chỉ dạy em kiến thức mà còn dạy em về lòng yêu thương, sự sẻ chia và tinh thần cầu tiến trong học tập. Em luôn ghi nhớ những bài học quý giá từ cô và hy vọng rằng sau này, em cũng sẽ trở thành người có thể truyền cảm hứng cho những thế hệ tiếp theo như cô đã làm với chúng em.

Kết thúc bài văn, em muốn gửi tới cô Lan những lời cảm ơn chân thành nhất. Em sẽ cố gắng học tập thật tốt để không phụ lòng cô, người cô mà em yêu quý và kính trọng nhất trong suốt quãng đời học sinh của mình.

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn lấp lánh như một ngọn đèn sáng giữa đêm tối. Người không chỉ là một nhà lãnh đạo vĩ đại, mà còn là một biểu tượng của tâm hồn lớn lao, yêu nước và khát vọng tự do. Một trong những sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của Bác chính là việc rời quê hương để ra đi tìm đường cứu nước. Hành trình đầy gian khổ ấy không chỉ thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất mà còn phản ánh tấm lòng thương dân, yêu nước sâu sắc của Người.

Trong những năm tháng đầu thế kỷ 20, đất nước ta đang chìm trong đêm tối của thực dân Pháp và chế độ phong kiến. Nhân dân ta sống trong cảnh lầm than, đói khổ. Trước tình hình đó, trong tâm thức của một người yêu nước, Hồ Chí Minh nhận ra rằng chỉ có một con đường duy nhất có thể cứu vãn đất nước: con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Sự ra đi của Bác khỏi quê hương Nghệ An, rời xa gia đình, bạn bè và những kỷ niệm ấu thơ, không chỉ là một hành động cá nhân mà còn là một quyết định mang tầm vóc lịch sử.

Hồ Chí Minh đã lên tàu ra đi vào năm 1911, mang theo trong mình nỗi đau quê hương, nỗi niềm trăn trở về vận mệnh đất nước. Mỗi bước đi của Người trên con đường tìm kiếm tri thức, tìm kiếm chân lý đều ẩn chứa một ý chí mạnh mẽ: tìm đường cứu nước, cứu dân. Hơn 30 năm ròng rã sống dưới nhiều hình thức khác nhau, trải qua bao thử thách ở nước ngoài, Bác đã nghiên cứu, học hỏi và trải nghiệm nhiều nền văn hóa, tư tưởng tiến bộ của thế giới. Những năm tháng này không chỉ là thời gian đi tìm con đường cứu nước mà còn là quá trình hình thành tư tưởng và bản lĩnh của một người lãnh đạo cách mạng.

Khi trở về quê hương vào năm 1941, Hồ Chí Minh mang theo trong mình không chỉ là lý tưởng, mà còn là những chiến lược rõ ràng để lãnh đạo dân tộc trong cuộc chiến giành độc lập. Bác đã thành công trong việc kết nối những tầng lớp nhân dân, từ nông dân, công nhân đến trí thức, cùng nhau đứng lên đấu tranh giành lại quyền tự do cho đất nước. Sự kiện này không chỉ mang tính lịch sử mà còn thể hiện tấm lòng bao la của Bác đối với dân tộc.

Với tầm nhìn vĩ đại và trái tim nhân hậu, Hồ Chí Minh đã dạy cho chúng ta rằng, để đạt được mục tiêu cao cả, mỗi người phải có khát vọng, phải đứng lên hành động. Sự ra đi của Người khỏi quê hương không phải là sự chia ly, mà là bước khởi đầu cho một hành trình lịch sử đầy vinh quang nhưng cũng đầy gian khổ. Tình yêu quê hương, đất nước trong lòng Người mãi mãi là nguồn động lực thúc đẩy toàn dân tộc phát triển.

Nhìn lại hành trình của Bác, chúng ta càng cảm nhận rõ được tấm lòng vĩ đại của Người. Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ, mà còn là một người cha của dân tộc, người đã sống hết mình vì lý tưởng độc lập tự do. Những cống hiến và hy sinh của Bác cho chúng ta, cho đất nước mãi mãi không bao giờ phai nhạt. Trong lòng mỗi người Việt Nam, Người luôn sống mãi như một biểu tượng của tinh thần yêu nước, lòng nhân ái và khát vọng hòa bình.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh - Người đã dời quê hương với một trái tim nặng trĩu nhưng đầy quyết tâm, đã để lại cho chúng ta một di sản quý giá, đó chính là tinh thần cách mạng và lòng yêu nước bất diệt. Chúng ta, những thế hệ sau, cần phải ghi nhớ và tiếp bước con đường mà Bác đã chọn, để xây dựng một Việt Nam ngày càng phát triển, hùng mạnh và văn minh.


Đọc tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà của Huỳnh Như Phương, tôi mãi ấn tượng về nhân vật dì Bảy, người dì đại diện cho số phận biết bao người phụ nữ nơi hậu phương mòn mỏi chờ chồng, dành cả cuộc đời để hi sinh thầm lặng cho gia đình, cho quê hương, Tổ quốc.

Dì Bảy là một nhân vật đã để lại trong tôi nhiều sự thương mến và cảm phục. Dì lấy chồng khi mới 20 tuổi. Dượng Bảy lại phải đi tập kết và chiến đấu. Vậy là từ ngày cưới, cả hai vợ chồng dì chưa được ở cạnh nhau bao lâu. Họ gặp nhau chỉ qua những cánh thư. 20 năm sau, Dượng Bảy mới có thể nhờ người gửi chiếc nón bài thơ cho dì làm quà và để chứng tỏ tình cảm của mình, để an ủi những ngày chờ mong dài đằng đẵng. Thế nhưng, trước khi chiến tranh kết thúc khoảng mươi ngày, dượng Bảy đã mãi mãi ra đi nơi chiến trường, dì Bảy đã trở thành người phụ nữ góa chồng. Vậy là suốt hơn 20 năm chờ đợi, biết bao thương nhớ, biết bao buồn tủi, biết bao là những nỗi lo lắng, bồn chồn, cuối cùng dì vẫn không đợi được một hạnh phúc trọn vẹn.

Mất chồng, dì Bảy vẫn cứ lầm lũi ngồi bên bậc thềm, nhìn ra xa như trông đợi điều gì. Dì Bảy đã phải hi sinh hạnh phúc cá nhân mình vì nghĩa lớn. Tôi biết, không chỉ có dì Bảy, mà còn có rất nhiều người phụ nữ trên dải đất hình chữ S này cũng chung cảnh ngộ như dì. Họ đều đã hi sinh thầm lặng, cao cả cho cuộc kháng chiến, để đất nước được thống nhất và phát triển. Chúng ta, những thế hệ hôm nay phải biết ơn và làm được điều gì để đền đáp được công ơn đó.

Dì Bảy đã cho tôi hiểu về đức hi sinh của con người. Tôi tin rằng lớp người trẻ chúng tôi tôi và những thế hệ mai sau sẽ đều ghi nhớ công ơn của các thế hệ trước. Mong rằng chiến tranh sẽ không bao giờ lặp lại, sẽ không còn ai phải chịu cảnh ngộ, phải hi sinh như dì Bảy.

a) Ta có: {A4^=110∘B2^=110∘ ⇒A4^=B2^=110∘.

Mà hai góc ờ vị trí so le trong  a //b.

b) Ta có: {c ⊥aa//b⇒c⊥b

c) Vì a  //b ⇒A4^+B1^=180∘

Mà hai góc ở vị trí trong cùng phía ⇒B1^=180∘−A4^=70∘.

Vì b ⊥ce⊥c và b//e

⇒B2^=C2^=110∘ (hai góc ở vị trí đồng vị)

Ta có C2^ và C3^ là hai góc kề bù ⇒C2^+C3^=180∘

⇒C3^=180∘−C2^=70∘.

loading...

Kẻ tia Cx là tia phân giác của ACD^ và Dy là tia phân giác của BDC^, hai tia Cx và Dy cắt nhau tại E.

C1^=C2^=60∘ và D1^=D2^=30∘

Kẻ tia Ez//m //n, tính E1^=60∘ và E2^=30∘

Suy ra CED^=90∘.

Các cặp góc so le trong là: góc Bvà góc A3; góc A4 và góc B2.

cặp góc đồng vị: góc B1 và góc A1; góc B2 và góc A2; góc B3 và góc A3; góc B4 và góc A4 .