Bùi Anh Đức
Giới thiệu về bản thân
Câu hỏi của bạn rất thú vị! “Khủng bố”, “khủng long” và “khủng rồng” đều là những từ ngữ trong tiếng Việt, nhưng chúng có nguồn gốc và ý nghĩa khác nhau.
- “Khủng bố” là từ mô tả hành động gây ra sự sợ hãi và bạo lực với mục đích chính trị.
- “Khủng long” là từ dùng để chỉ loài vật cổ đại đã tuyệt chủng, có nghĩa là “thằn lằn khổng lồ”.
- Còn “khủng rồng”, theo như bạn đề cập, nếu “long” được hiểu là “rồng” thì nó có thể được hiểu là “rồng khổng lồ”. Tuy nhiên, từ này không phổ biến trong tiếng Việt.
Về “khủng mẹ”, có thể bạn đang nghĩ đến một từ ngữ mới hoặc một cách diễn đạt hài hước. Trong ngôn ngữ, sự sáng tạo và biến đổi là điều rất bình thường. Tuy nhiên, từ “khủng mẹ” hiện chưa có trong từ điển tiếng Việt. Nếu bạn muốn sử dụng, hãy chắc chắn rằng mọi người hiểu ý bạn muốn nói. Ngôn ngữ luôn thay đổi và phát triển theo thời gian, văn hóa và cộng đồng sử dụng.
Câu 1: Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Việt Nam và những chuyển biến mới về kinh tế:
- Thực dân Pháp đã thực hiện chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai từ năm 1919 đến 1929. Trong giai đoạn này, Pháp đã tập trung đầu tư vào nông nghiệp và công nghiệp khai mỏ để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chính quốc.
- Chính sách này đã tạo ra sự chuyển biến lớn trong nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể, nó đã thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp khai mỏ, tạo ra nguồn nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp Pháp.
Câu 2: Tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai đối với xã hội Việt Nam:
- Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai, xã hội Việt Nam đã trải qua nhiều chuyển biến. Cụ thể, sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp khai mỏ đã tạo ra nhiều việc làm, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và góp phần thay đổi cấu trúc xã hội.
Câu 3: Hoạt động của tư sản, tiểu tư sản, công nhân Việt Nam và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919 – 1925:
- Trong giai đoạn này, tư sản và tiểu tư sản Việt Nam đã tham gia vào các hoạt động kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Công nhân Việt Nam cũng đã tham gia vào quá trình sản xuất, đóng góp vào sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp khai mỏ.
- Nguyễn Ái Quốc, trong giai đoạn từ 1919 đến 1925, đã tham gia vào nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam. Cụ thể, ông đã tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn này.
Gợi ý:
Để giải quyết câu hỏi này, chúng ta cần tìm hiểu giá của đường trắng cho mỗi kilogram.
Đầu tiên, chúng ta biết rằng giá của 4kg đường là 68000 đồng. Vậy nên, giá cho mỗi kilogram đường sẽ là 68000 đồng chia cho 4kg, tức là 17000 đồng/kg.
Tiếp theo, chúng ta muốn biết giá của 6,5kg đường. Với giá 17000 đồng/kg, tổng cộng sẽ là 6,5kg nhân với 17000 đồng/kg, tức là 110500 đồng.
Cuối cùng, để tìm ra số tiền phải trả thêm khi mua 6,5kg đường so với 4kg đường, chúng ta chỉ cần lấy 110500 đồng trừ đi 68000 đồng, tức là 42500 đồng.
Vậy, khi mua 6,5kg đường, bạn sẽ phải trả thêm 42500 đồng so với khi mua 4kg đường.
a. Số lượng và tỷ lệ từng loại Nu của gen:
- Gen có tổng 2 loại Nu bằng 40% số nu của gen, vậy 2 loại Nu còn lại chiếm 60%. Do đó, mỗi loại Nu chiếm 20% tổng số Nu của gen.
- Khi gen sao mã phá vỡ 1260 liên kết H2 để tổng hợp 1 phân tử mARN, tức là gen có tổng cộng 1260 * 2 = 2520 Nu (vì mỗi liên kết H2 nối 2 Nu).
- Vậy, mỗi loại Nu sẽ có số lượng là 20% * 2520 = 504 Nu.
b. Số lượng và tỷ lệ từng loại ribonu của phân tử mARN:
- Theo quy tắc đối xứng, tỷ lệ các loại ribonu trong mARN sẽ ngược lại với tỷ lệ các loại Nu trong gen. Do đó, mARN sẽ có 20% A, 20% T, 20% C và 40% G.
- Vì tổng số ribonu trong mARN bằng tổng số Nu trong gen, tức là 2520 ribonu, nên mỗi loại ribonu A, T, C sẽ có số lượng là 20% * 2520 = 504 ribonu, và ribonu G sẽ có số lượng là 40% * 2520 = 1008 ribonu.
c. Chiều dài của gen:
- Mỗi Nu tương ứng với 1 liên kết H2, và mỗi liên kết H2 tương ứng với 0.34 nm. Do đó, chiều dài của gen sẽ là số Nu nhân với 0.34 nm, tức là 2520 * 0.34 = 856.8 nm.
a) Mỗi lần nguyên phân, số NST đơn trong tế bào sẽ nhân đôi. Do đó, để biết số lần nguyên phân, ta cần tìm số lần mà 78 NST đơn (số NST đơn trong tế bào sơ khai) cần nhân đôi để đạt được 9906 NST đơn. Điều này có thể được tính bằng cách lấy logarit cơ số 2 của tỷ lệ giữa 9906 và 78, tức là log2(9906/78). Kết quả sau khi làm tròn đến số nguyên gần nhất sẽ là số lần nguyên phân.
b) Mỗi tế bào sinh dục sơ khai sau nguyên phân sẽ tạo ra 4 tế bào sinh trứng thông qua giảm phân. Do đó, số tế bào sinh trứng tạo ra sẽ là 9906/4. Tuy nhiên, chỉ có 50% trứng thụ tinh thành công, vì vậy số hợp tử tạo thành sẽ là 50% của số trứng, tức là 0.5 * 9906/4.
c) Mỗi trứng chỉ thụ tinh với một tinh trùng, và hiệu suất thụ tinh của tinh trùng là 6.25%. Do đó, số tế bào sinh tinh cần thiết sẽ là số hợp tử tạo thành chia cho tỷ lệ thụ tinh của tinh trùng, tức là (0.5 * 9906/4) / 0.0625.
a. Để giải thích kết quả này, chúng ta cần giả định rằng màu sắc của ngựa được xác định bởi một gen với ba alen: một cho màu đỏ (D), một cho màu hồng (H), và một cho màu xám (X). Chúng ta cũng giả định rằng alen cho màu đỏ là trội so với hai alen khác, và alen cho màu hồng là trội so với alen cho màu xám. Vì vậy, các kiểu gen có thể là như sau:
- Ngựa đỏ: DD, DH, DX
- Ngựa hồng: HH, HX
- Ngựa xám: XX
b. Để tạo ra tỷ lệ phần trăm ngựa hồng lớn nhất, chúng ta nên lai giữa hai ngựa có kiểu gen HH. Kết quả sẽ là 100% ngựa hồng.
Giả sử chiều rộng của mảnh đất là x (m). Vì chiều dài gấp 3 lần chiều rộng nên chiều dài sẽ là 3x (m).
Khi người ta mở rộng chiều dài thêm 4 m thì diện tích tăng thêm 32 m². Điều này có nghĩa là 4x = 32, vậy x = 8.
Vậy, diện tích ban đầu của mảnh đất là chiều dài nhân chiều rộng, tức là 3x * x = 3 * 8 * 8 = 192 m².
Đầu tiên, ta cần tính tổng số kẹo mà Bình, Minh và Bảo có: 58 + 78 + 98 = 234 cái kẹo.
Sau đó, ba bạn ấy đã chia cho Lan, Liên và Mai, mỗi người được 10 cái kẹo. Vậy tổng số kẹo đã chia là: 3 * 10 = 30 cái kẹo.
Hai bạn đã cho An 15 cái kẹo.
Vậy số kẹo còn lại sau khi chia cho Lan, Liên, Mai và An là: 234 - 30 - 15 = 189 cái kẹo.
Cuối cùng, An đã cho anh Văn 1/3 số kẹo mà An có. Vậy số kẹo của An sau khi cho anh Văn là: 15 - (15 / 3) = 10 cái kẹo.
Vậy, sau khi cho anh Văn 1/3 số kẹo, An còn lại 10 cái kẹo.
Gợi ý:
A) Diện tích tam giác ABC
- Gọi S là diện tích tam giác ABC, h là độ cao của tam giác ABC kẻ từ đỉnh B xuống AC.
- Theo định lý diện tích tam giác, ta có: S = (1/2)AC.h
- Theo giả thiết, ta có: AN = (2/3)NC, suy ra AC = AN + NC = (2/3)NC + NC = (5/3)NC
- Do đó, S = (1/2).(5/3)NC.h = (5/6)NC.h
- Gọi S1 là diện tích tam giác ABM, h1 là độ cao của tam giác ABM kẻ từ đỉnh B xuống AM.
- Theo định lý diện tích tam giác, ta có: S1 = (1/2)AM.h1
- Theo giả thiết, ta có: S1 = 30cm2
- Do M là điểm nằm trên AC, nên AM = AN + NM = (2/3)NC + NM
- Do đó, S1 = (1/2).[(2/3)NC + NM].h1 = 30cm2
- Ta có hai phương trình với hai ẩn số NC và h1, ta có thể giải hệ phương trình này để tìm được NC và h1.
- Sau khi tìm được NC và h1, ta có thể thay vào công thức S = (5/6)NC.h để tính được diện tích tam giác ABC.
B) Diện tích tam giác ABN
- Gọi S2 là diện tích tam giác ABN, h2 là độ cao của tam giác ABN kẻ từ đỉnh B xuống AN.
- Theo định lý diện tích tam giác, ta có: S2 = (1/2)AN.h2
- Theo giả thiết, ta có: AN = (2/3)NC
- Do đó, S2 = (1/2).(2/3)NC.h2 = (1/3)NC.h2
- Ta có thể sử dụng quan hệ giữa các độ cao của tam giác ABC, ABM và ABN để tìm được h2 theo h1.
- Sau khi tìm được h2, ta có thể thay vào công thức S2 = (1/3)NC.h2 để tính được diện tích tam giác ABN.