Dương Thị Mỹ Linh
Giới thiệu về bản thân
Trước hết chúng ta phải xác định được:
+ Kinh tuyến gốc: kinh tuyến số 0 độ, đi qua đài thiên văn Grin-uýt ở ngoại ô thành phố Luân Đôn (nước Anh).
+ Vĩ tuyến gốc: vĩ tuyến số 0 độ (Xích đạo).
Từ đó suy ra được đâu là kinh tuyến Đông và Tây, đâu là vĩ tuyến Bắc và Nam:
- Kinh tuyến Đông: những kinh tuyến nằm bên phải kinh tuyến gốc.
- Kinh tuyến Tây: những kinh tuyến nằm bên trái kinh tuyến gốc.
- Vĩ tuyến Bắc: những vĩ tuyến nằm từ Xích đạo đến cực Bắc.
- Vĩ tuyến Nam: những vĩ tuyến nằm từ Xích đạo đến cực Nam.
Đường kinh tuyến , vĩ tuyến giúp ta xác định vị trí của mọi địa điểm trên Trái đất
a. Nếu như bỏ cụm từ in đậm, về cấu trúc, câu không có trạng ngữ, và ý nghĩa câu cũng bị mờ khi mục đích câu chuyện đưuọc nói tới là quá khứ và từ chỉ quá khứ, xác định thời gian đã bị lược
b. Nếu viết như vậy thì không phù hợp. Vì câu ban đầu hàm nghĩa là đứng lên trả lời, câu viết lại bị phân tách và sai lệch về nghĩa khi hoạt động ở đây diễn ra theo chiều hướng nghịch: trả lời câu hỏi rồi đứng lên.
c. Không thể thay đổi cấu trúc câu được. Vì nếu thay đổi cấu trúc câu, câu sẽ mang nghĩa chưa chuẩn xác so với câu văn ban đầu. Câu biến đổi ở đây bị nghịch, phi lí trong theo logic thông thường và dễ gây hiểu lầm cho người đọc.
Nguyễn Đinh Chiểu, là một nhà thơ với tâm hồn yêu nước sâu sắc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông luôn tôn trọng đạo đức và đặt tình yêu cho dân, đất nước làm trung tâm. Dù viết về nhiều đề tài, nhưng những bài thơ chống giặc, tinh thần đoàn kết yêu nước vẫn là những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Bài văn về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là 1 minh chứng rõ nét cho tư tưởng yêu nước của nhà thơ, mở ra một góc nhìn mới về anh hùng trong văn học.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác theo hình thức phú luật Đường, với bố cục chia thành bốn phần theo quy định của thể văn tế. Tác phẩm này khẳng định thành công của Nguyễn Đình Chiểu trong nghệ thuật viết vận tế. Bài văn tưởng nhớ đến những chiến sĩ Cần Giuộc đã anh dũng hi sinh trong cuộc chiến chống xâm lược, đồng thời truyền đạt tinh thần chiến đấu, khuyến khích lòng yêu nước của nhân dân. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, có một tượng đài nghệ thuật vững vàng về người nông dân, tương xứng với phẩm chất nghề nghiệp của họ. Ở đây, họ là những nông dân nghĩa quân chiến đấu, cứu nước.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật hiếm có. Vẻ đẹp của tượng đài nghệ thuật này vừa hoành tráng, hùng vĩ, vừa truyền cảm, bi thương. Tác phẩm thể hiện một quan niệm mới về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, độc đáo và mới lạ so với văn học yêu nước ở các giai đoạn trước.
Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu khác biệt như thế nào so với các nhà Nho yêu nước xưa? Trong quá khứ, khi xây dựng hình tượng người anh hùng, nhiều nhà văn thường tập trung mô tả về những bậc hào kiệt, những con người kiệt xuất lãnh đạo các phong trào đấu tranh của nhân dân. Ngược lại, với Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh về người anh hùng không tìm kiếm ở những nơi xa xôi, mà lại xuất phát từ những người nông dân chân chất, tận tâm và yêu nước. Tài năng của ông là khám phá và xây dựng hình tượng người anh hùng nông dân bằng văn chương. Đây không chỉ là một cá nhân, mà là toàn bộ nhóm những người anh hùng, là những nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hình ảnh trung tâm của tác phẩm là những chiến sĩ nghĩa quân. Xuất phát từ nền nông dân nghèo, cuộc sống của họ đơn sơ, chăm chỉ làm việc nông nghiệp, chưa quen với việc cung ngựa, học văn. Họ là những người chân lấm tay bùn, thường xuyên cuộc sống trong làng. Nhưng khi đất nước, quê hương bị giặc xâm lược, những người dân chân chất ấy đã hiên ngang đứng lên, hi sinh vì lý tưởng cứu nước. Đánh giặc để bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Bát cơm manh áo là ý nghĩa lớn mà họ tôn trọng và hành động. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những dòng văn giản dị nhưng chứa đựng tinh thần yêu nước cao quý.
Cảm nhận mùi ngon của bòng bong che trắng như lốp, muốn đến thưởng thức gan; hôm nay, nhìn thấy ống khói đen sì bay lên, muốn ra đây thưởng thức ẩm thực.
Tác giả đã mô tả một cuộc chiến đấu đầy quyết tâm và sức mạnh mạnh mẽ của các chiến sĩ Cần Giuộc. Họ chỉ mặc chiếc áo vải đơn giản, trang bị vũ khí như một cây gậy vông, một chiếc dao phay hoặc một khẩu súng hỏa mai bằng rơm con cúi. Tuy nhiên, họ vẫn ghi được những chiến công xuất sắc như chém đầu quan thù và thiêu rụi nhà dạy đạo. Thật sự, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra một tượng đài nghệ thuật về những anh hùng chiến đấu không khuất phục, sẵn lòng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Chứng minh rằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật về người anh hùng nông dân.
Nhìn chiếc quạt quản gió rơi, đạp rào đi mượt mà, thấy gióng chiến trống hối kích, coi trận đánh như một sự kiện không thể đánh bại; không sợ đạn nhỏ đạn to của thằng Tây, xông cửa mạnh mẽ, liều lĩnh như không có gì.
Những đoạn văn tuyệt vời như những tia lửa bùng cháy. Không khí chiến trận hừng hực âm nhạc chiến đấu, trống hồi hộp, bước chân điên đảo, mở cửa đón những thách thức, dũng cảm nhưng không hề do dự. Các chiến sĩ xem cái chết như một bản hòa nhạc không tên xâm chiếm lãnh thổ của kẻ thù. Bằng cách diễn đạt hùng biện, tình yêu quê hương, những hành động mạnh mẽ và chín mùi... đã làm nổi bật tâm hồn chiến đấu dũng cảm không thể đo bằng của những người anh hùng Cần Giuộc. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã dành tặng những trái tim của những chiến sĩ nghĩa quân những cảm xúc tươi đẹp nhất, sự ca ngợi và sự kính trọng tự hào. Thông qua đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh lần đầu tiên của người nông dân trong thơ văn với vị thế cao quý của những anh hùng dân tộc, những người xuất thân từ tầng lớp nông dân, luôn chăm chỉ với cày cuốc, nhưng khi đối mặt với giặc xâm lược, họ đã tỏ ra anh dũng đứng lên một cách tự nguyện và nhiệt huyết nhất, hy sinh bản thân cho sự độc lập của dân tộc.
Điểm độc đáo của Nguyễn Đình Chiểu là khả năng nhìn nhận những nhân vật anh hùng ngay trong cuộc sống hàng ngày, không phải là những nhân vật xuất sắc hay tài năng, chỉ đơn giản là những người nông dân sống giản dị, làm việc chăm chỉ. Họ luôn gần gũi với chúng ta mỗi ngày. Điều này xuất phát từ góc nhìn của Nguyễn Đình Chiểu - về anh hùng nông dân, khiến người đọc nhận ra rằng anh hùng, những con người cao quý không ở xa xôi, mà luôn đồng hành bên cạnh chúng ta. Có thể nói, quan điểm tiến bộ về hình ảnh người nông dân làm cách mạng không phải ai cũng hiểu được, nhưng qua bức tranh của Nguyễn Đình Chiểu, ta thấy ông là lá cờ tiên phong về quan điểm này.
Những chiến sĩ đã sống một cách dũng cảm và chết một cách vẻ vang. Tâm hồn chiến đấu và sự hi sinh của họ như một viên ngọc lấp lánh gửi trao cho bóng trăng thanh thoát mãi mãi, sáng bừng mãi, tồn tại song hành với núi non. Bài học quan trọng nhất mà những người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về cuộc sống và cái chết. Sống một cách kiêu hãnh, chết một cách không khuất phục. Tâm hồn đó đã đặt nền móng cho kiệt tác nghệ thuật về người nông dân đánh giặc.
Sống để chống giặc, thác cũng chống giặc, linh hồn hỗ trợ mỗi cơ binh, kiếp kiếp truy cứu mối thù ấy...
Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đưa ta hòa mình vào một không gian văn chương tinh tế, nơi bức tranh về anh hùng nông dân nở rộ trong từng nét chữ. Bằng cách tận dụng bút pháp trữ tình và hiện thực, tác giả đã khéo léo tái hiện cuộc sống đầy xúc động của dân tộc, để lại dấu ấn sâu sắc về lòng yêu nước và tình anh hùng.
cha mẹ đc k?
vì Tiểu cầu vận chuyển trong mạch va vào thành mạch không vỡ nhờ thành mạch trơn không giải phóng enzim để tạo ra máu
Vào ngày sinh nhật lần thứ 8 của em , bà ngoại có tặng em một chú mèo rất dễ thương và đáng yêu. Vừa nhìn thấy chú là em đã vui mừng và thích thú lắm!Em thường gọi chú với cái tên dễ thương là Mi.
“Meo, meo, meo”, hôm nào cũng vậy, cứ khi em ngồi vào bàn học bài là chú Mi lại đến nằm dụi đầu vào chân em. Mi thân thiết và gắn bó với em từng ngày.
Ngày bà ngoại cho, con mèo chỉ bằng chai nước khoáng nhỏ nhưng bây giờ thì nó đã to bằng cái chai Cô-ca đại bự. Toàn thân chú được bao phủ một màu vàng và điểm thêm vài vệt trắng làm cho chiếc áo của chú lại càng thêm đẹp. Cái đầu của chú to hơn quả bóng ten-nít một chút. Đôi mắt tròn như hai hòn bi ve và sáng như đèn pha. Cái mũi phơn phớt hồng, lúc nào cũng ươn ướt như người bị cúm sổ mũi vậy. Cái tai của chú mới thính làm sao ! Chỉ một tiếng động nhỏ, chú đều phát hiện được đó là tiếng gì, có cần phải giải quyết hay không. Cái tai và cái mũi đó chính là cái ra-đa của chú để phát hiện những tên chuột láu lỉnh hay phá hoại, ăn trộm thóc gạo của người. Cổ Mi được quàng một chiếc khăn màu trắng đục. Bốn cái chân không cao lắm so với thân hình chú nhưng lại chạy rất nhanh. Dưới bàn chân là một lớp thịt dày, mịn, màu hồng nhạt.
Bà em bảo những miếng thịt đó giúp Mi di chuyển nhẹ nhàng, không gây một tiếng động nhỏ, làm cho nhiều chú chuột không ngờ. Những chiếc vuốt của chú rất nhọn và sắc. Đã có lần, những chiếc vuốt đó đã để lại dấu vết trên tay em khi em đùa vui, nghịch ngợm với chú. Chính những chiếc vuốt đó là thứ vũ khí lợi hại của chú mà mỗi con chuột khi nhìn thấy phải kinh hoàng. Mỗi khi muốn chơi với em, chú lại dùng đầu dụi vào tay em rồi lấy những cái vuốt ấy cào cào nhẹ vào bàn tay em. Chao ôi ! Cái đuôi của chú mới dẻo làm sao ! Chiếc đuôi như một cái dấu ngã, chẳng giấu vào đâu được. Hôm nào cũng vậy, chú ta cứ ngủ khì. Thế nhưng lũ chuột cũng chẳng dám ra quấy phá vì chú rất tinh, cũng có thể lũ chuột cảnh giác, nghĩ là Mi đang rình chúng đấy. Ban đêm, Mi ta mới đi làm cho chủ. Chú ta biết hết đường đi lối lại của bọn chuột.
Không con chuột nào chạy thoát nếu chú đã phát hiện được. Có lần, em được chứng kiến nó bắt chuột ban ngày. Có lẽ, con chuột đó đói quá phải đi ăn trộm ban ngày. Chú Mi ngụy trang rất khéo, chú nằm khuất sau cái chổi cạnh chân hòm cáng thóc. Một con chuột nhắt rất tinh ranh, mắt lấm lét, đi nhẹ nhàng đến định trèo lên hòm thóc để chui vào ăn thóc. Mi nằm yên như đang ngủ. Bỗng “chụp” một cái, chỉ nghe thấy tiếng“chít” tuyệt vọng, Mi ta đã vồ gọn con mồi trong móng vuốt của chú. Hả hê với chiến thắng của mình, Mi tha con chuột đó ra vườn. Chú nhả con chuột ra, lấy cái chân trước vờn đi vờn lại con chuột đó. Con chuột vội chạy đi nhưng chạy sao thoát. Em nghĩ con chuột đó chỉ sợ đã chết. Thế rồi, chú ta ung dung ngồi chén hết con chuột nhắt đó. Mỗi lần chú bắt được chuột, em đều vuốt ve động viên chú. Đến bữa, em lại thưởng cho chú những miếng ăn ngon nhất. Mi tỏ vẻ sung sướng lắm.
Mi ăn rất ít, hàng ngày chú ta ăn không hết một bát cơm. Khi ăn, chú ta cứ nhỏ nhẻ từng tí một. Em thường nghe mọi người nói “ăn như mèo” quả không sai. Dù đói đến đâu thì Mi cũng ăn rất từ tốn. Khác với Vàng- chú cún tinh nghịch nhà em, cứ ăn hùng hục. Vàng và Mi rất thân với nhau. Ngày nào, chúng cũng chơi đùa với nhau mà không có xích mích gì cả.
Buổi sáng, khi nắng vàng trải khắp sân, Mi nằm duỗi dài bốn chân, mắt lim dim, trông thật đáng yêu. Thỉnh thoảng , nó lại cho tay lên mặt cào cào, như là nó đang rửa mặt. Buổi tối, khi cả nhà ăn cơm xong, bao giờ Mi cũng tranh thủ ngồi vào lòng em nũng nịu.
Em rất yêu quý Mi. Míu không chỉ là vật kỉ niệm của bà ngoại tặng cho em mà nó còn là “dũng sĩ diệt chuột” của nhà em. Mi giúp nhà em rất nhiều trong chiến dịch diệt chuột. Từ ngày có Mi, nhà em không còn lo lũ chuột quấy phá. Em sẽ chăm sóc Mi cho khỏe, chơi với Mi vui vẻ để làm theo đúng lời dặn của bà em khi bà tặng Mi cho em.
ơ cái bài này lên lớp 6 mình mới được học