Lại Thị Linh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Lại Thị Linh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)


Hiện tượng:

--Khi cắt một mẩu natri (Na) nhỏ cho vào dung dịch đồng(II) sunfat (CuSO₄):

+Natri phản ứng mãnh liệt với nước trong dung dịch, giải phóng khí hydro (H₂) và tạo thành dung dịch kiềm NaOH. +Sau đó, NaOH phản ứng với CuSO₄, tạo kết tủa Cu(OH)₂ màu xanh lam.

+Không có phản ứng oxi hóa - khử trực tiếp giữa Na và Cu²⁺ trong dung dịch nước vì natri bị nước phản ứng trước.

*Các phương trình hóa học:

1.Natri phản ứng với nước:
2Na + 2H₂O ---> 2NaOH + H₂

2.NaOH tạo thành phản ứng với CuSO₄:
CuSO₄ + 2NaOH --> Cu(OH)₂ + Na₂SO₄

Tổng kết hiện tượng:

- Có bọt khí (do khí H₂).

- Dung dịch dần xuất hiện kết tủa màu xanh lam Cu(OH)₂.




* Đặc điểm tinh thể kim loại:

--Cấu trúc mạng tinh thể:
-Các nguyên tử kim loại được sắp xếp một cách chặt chẽ và có trật tự trong không gian, tạo thành các mạng tinh thể như:
+Lập phương tâm diện (FCC)

+Lập phương tâm khối (BCC)

+Lục phương (HCP)

-Tính trật tự và lặp lại:
Cấu trúc tinh thể kim loại có tính chu kỳ và đồng đều, giúp kim loại có tính chất cơ học đặc trưng như độ bền, tính dẻo. -Khả năng biến dạng:
Dưới tác dụng của ngoại lực, các lớp nguyên tử có thể trượt lên nhau mà không phá vỡ cấu trúc chung, giúp kim loại dễ dát mỏng và kéo sợi.

*Liên kết kim loại:

--Bản chất:
Là loại liên kết hóa học đặc trưng cho các kim loại, trong đó các nguyên tử kim loại mất electron lớp ngoài, tạo thành ion dương nằm trong “biển electron tự do”

--“Biển electron”:
Các electron tự do chuyển động linh hoạt giữa các ion dương, giúp liên kết kim loại có tính bền vững và đặc tính dẫn điện, dẫn nhiệt tốt.

--Tính chất liên kết kim loại:
+Dẫn điện và dẫn nhiệt: Do electron tự do chuyển động dễ dàng.

+Ánh kim: Electron tự do phản xạ ánh sáng tốt.

+Tính dẻo: Các lớp ion dương dễ trượt lên nhau mà không làm gãy liên kết.



Câu 1:

Bài làm

Từ phần đọc hiểu "Tiếc thương sinh thái", có thể thấy rõ rằng biến đổi khí hậu và sự hủy hoại môi trường không chỉ là vấn đề vật chất mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần, cảm xúc của con người. Môi trường không chỉ đơn thuần là không khí ta hít thở, nguồn nước ta sử dụng, mà còn là một phần quan trọng trong bản sắc văn hóa, lối sống và sự gắn kết cộng đồng. Khi thiên nhiên bị tàn phá, con người không chỉ mất đi nguồn sống mà còn trải qua những tổn thương tâm lý sâu sắc, như cảm giác đau buồn, tiếc nuối, mất mát – được gọi là “tiếc thương sinh thái”. Điều đó cho thấy, việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm về mặt sinh thái, mà còn là hành động cần thiết để giữ gìn sự cân bằng tinh thần và bản sắc văn hóa cho các thế hệ hiện tại và tương lai. Mỗi hành động nhỏ như trồng thêm một cái cây, giảm rác thải nhựa, tiết kiệm tài nguyên… đều là những bước đi thiết thực trong việc gìn giữ hành tinh xanh – ngôi nhà chung của toàn nhân loại.

Câu 2 :

Bài làm

Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng đẹp cho lý tưởng sống thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên, xa lánh chốn danh lợi. Hai bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến cùng khắc họa hình ảnh người ẩn sĩ với những điểm gặp gỡ và khác biệt tinh tế, thể hiện nhân sinh quan và tấm lòng của các bậc hiền sĩ xưa.


Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ "Nhàn" thể hiện quan niệm sống nhàn thân, nhàn tâm, chọn cuộc sống ẩn dật để giữ gìn nhân cách. Ông tự ví mình như người “dại” để tránh cái “khôn” của thế tục, lánh xa nơi "lao xao" để tìm về chốn yên bình với “ao thu, bầu rượu, cần câu”. Thiên nhiên trong thơ ông gần gũi, mang tính biểu tượng cho sự tự tại, ung dung. Đây là quan niệm sống “an bần lạc đạo”, một lựa chọn có ý thức và kiên định trước dòng xoáy danh lợi.


Trong khi đó, Nguyễn Khuyến cũng chọn lối sống ẩn dật nơi quê nhà, nhưng hình tượng ẩn sĩ trong thơ ông gắn liền với không gian thu đặc trưng của làng quê Bắc Bộ. Thiên nhiên hiện lên sinh động với “trời thu xanh”, “cần trúc”, “khói phủ”, “bóng trăng”… Tâm hồn ẩn sĩ của ông hòa quyện cùng vẻ đẹp ấy, thể hiện sự gắn bó sâu nặng với hồn quê, đất nước. Tuy nhiên, ẩn sâu trong giọng thơ là nỗi buồn thời thế, là tiếng thở dài tiếc nuối: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Đó là sự dằn vặt của một trí thức yêu nước khi chọn về ở ẩn trong thời cuộc nhiễu nhương.


Như vậy, cả hai nhà thơ đều thể hiện hình ảnh người ẩn sĩ với sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên, hướng đến đời sống tinh thần thanh cao. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sự chủ động, ung dung trong lựa chọn sống nhàn thì Nguyễn Khuyến lại gửi gắm vào hình tượng ấy nỗi niềm trăn trở, buồn đau cho vận nước. Dù khác biệt ở sắc thái, hai hình tượng đều là tấm gương cho lý tưởng nhân cách cao quý, tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn của con llngười Việt Nam xưa.

Câu 1:

Bài làm

Từ phần đọc hiểu "Tiếc thương sinh thái", có thể thấy rõ rằng biến đổi khí hậu và sự hủy hoại môi trường không chỉ là vấn đề vật chất mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần, cảm xúc của con người. Môi trường không chỉ đơn thuần là không khí ta hít thở, nguồn nước ta sử dụng, mà còn là một phần quan trọng trong bản sắc văn hóa, lối sống và sự gắn kết cộng đồng. Khi thiên nhiên bị tàn phá, con người không chỉ mất đi nguồn sống mà còn trải qua những tổn thương tâm lý sâu sắc, như cảm giác đau buồn, tiếc nuối, mất mát – được gọi là “tiếc thương sinh thái”. Điều đó cho thấy, việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm về mặt sinh thái, mà còn là hành động cần thiết để giữ gìn sự cân bằng tinh thần và bản sắc văn hóa cho các thế hệ hiện tại và tương lai. Mỗi hành động nhỏ như trồng thêm một cái cây, giảm rác thải nhựa, tiết kiệm tài nguyên… đều là những bước đi thiết thực trong việc gìn giữ hành tinh xanh – ngôi nhà chung của toàn nhân loại.

Câu 2 :

Bài làm

Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng đẹp cho lý tưởng sống thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên, xa lánh chốn danh lợi. Hai bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến cùng khắc họa hình ảnh người ẩn sĩ với những điểm gặp gỡ và khác biệt tinh tế, thể hiện nhân sinh quan và tấm lòng của các bậc hiền sĩ xưa.


Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ "Nhàn" thể hiện quan niệm sống nhàn thân, nhàn tâm, chọn cuộc sống ẩn dật để giữ gìn nhân cách. Ông tự ví mình như người “dại” để tránh cái “khôn” của thế tục, lánh xa nơi "lao xao" để tìm về chốn yên bình với “ao thu, bầu rượu, cần câu”. Thiên nhiên trong thơ ông gần gũi, mang tính biểu tượng cho sự tự tại, ung dung. Đây là quan niệm sống “an bần lạc đạo”, một lựa chọn có ý thức và kiên định trước dòng xoáy danh lợi.


Trong khi đó, Nguyễn Khuyến cũng chọn lối sống ẩn dật nơi quê nhà, nhưng hình tượng ẩn sĩ trong thơ ông gắn liền với không gian thu đặc trưng của làng quê Bắc Bộ. Thiên nhiên hiện lên sinh động với “trời thu xanh”, “cần trúc”, “khói phủ”, “bóng trăng”… Tâm hồn ẩn sĩ của ông hòa quyện cùng vẻ đẹp ấy, thể hiện sự gắn bó sâu nặng với hồn quê, đất nước. Tuy nhiên, ẩn sâu trong giọng thơ là nỗi buồn thời thế, là tiếng thở dài tiếc nuối: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Đó là sự dằn vặt của một trí thức yêu nước khi chọn về ở ẩn trong thời cuộc nhiễu nhương.


Như vậy, cả hai nhà thơ đều thể hiện hình ảnh người ẩn sĩ với sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên, hướng đến đời sống tinh thần thanh cao. Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sự chủ động, ung dung trong lựa chọn sống nhàn thì Nguyễn Khuyến lại gửi gắm vào hình tượng ấy nỗi niềm trăn trở, buồn đau cho vận nước. Dù khác biệt ở sắc thái, hai hình tượng đều là tấm gương cho lý tưởng nhân cách cao quý, tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn của con llngười Việt Nam xưa.