Trần Diệu Linh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Trần Diệu Linh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Bài 3:

a) Ta có \(W_{t_{đ \overset{ˋ}{\hat{a}} u}} = m g h = 0 , 2.10.10 = 20 \left(\right. J \left.\right)\)

Vận tốc của vật khi chạm đất là \(v = \sqrt{2 g h} = \sqrt{2.10.10} = 10 \sqrt{2} \left(\right. m / s \left.\right)\)

\(\Rightarrow W_{đ_{c h ạ m đ \overset{ˊ}{\hat{a}} t}} = \frac{1}{2} m v^{2} = \frac{1}{2} . 0 , 2. \left(\left(\right. 10 \sqrt{2} \left.\right)\right)^{2} = 20 \left(\right. J \left.\right)\)

Ta thấy \(W_{t_{đ \overset{ˋ}{\hat{a}} u}} = W_{đ_{c h ạ m đ \overset{ˊ}{\hat{a}} t}} = 20 J\)

b) Cơ năng của vật là \(W = W_{t_{đ \overset{ˋ}{\hat{a}} u}} + W_{đ_{đ \overset{ˋ}{\hat{a}} u}}\) \(= 20 J\) (vì \(v_{0} = 0 \left(\right. m / s \left.\right)\))

Gọi vị trí mà động năng bằng thế năng là \(A\)

 \(\Rightarrow W_{t_{A}} = W_{đ_{A}}\) 

 \(\Rightarrow W_{t_{A}} = \frac{1}{2} W_{A} = \frac{1}{2} W = 10 J\)

 \(\Rightarrow m g h_{A} = 10 J\) 

 \(\Rightarrow 0 , 2.10 h_{A} = 10 J\)

 \(\Rightarrow h_{A} = 5 \left(\right. m \left.\right)\)

 Vậy khi vật ở độ cao 5m so với mặt đất thì động năng bằng thế năng.

Bài 2

a) Trọng lượng vật chính là lực để kéo vật lên: 

\(F = P = 10 m = 10 \cdot 1200 = 12000 \left(\right. N \left.\right)\)

Công suất của động cơ:

\(P_{1} = F \cdot v = 12000 \cdot 1 = 12000 \left(\right. W \left.\right)\)

b) Chọn chiều dương là chiều chuyển động.

Áp dụng định luật ll Niu-tơn ta có: \(\overset{\rightarrow}{F_{k}} + \overset{\rightarrow}{P} = m \cdot \overset{\rightarrow}{a}\)

\(\Rightarrow F_{k} - P = m \cdot a \Rightarrow F_{k} = m \cdot a + P = 1200 \cdot 0 , 8 + 12000 = 12960 \left(\right. N \left.\right)\)

Vận tốc vật đạt khi di chuyển trên độ cao \(10 m\) là:

\(v^{2} - v_{0}^{2} = 2 a S \Rightarrow v = \sqrt{2 a S} = \sqrt{2 \cdot 0 , 8 \cdot 10} = 4 m / s\)

Công suất trung bình của động cơ:

\(P = F_{k} \cdot v = 12960 \cdot 4 = 51840 \left(\right. W \left.\right)\)

Bài 1:

Áp dụng định luật Il Niu-tơn: Psina - Fms =m•a

→ Fms = Psina - m •a = 1,5 •10 • sin30° - 1,5•2 =4,5N

a,Công của trọng lực: A = Psina • s = 1,5•

10 • sin30° • 8 = 60J

b,Công của lực ma sát: Ams = - Ems • s =

-4,5• 8=-36J

Phần II:

Câu 1

Bài làm

Trong xã hội hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ và tri thức, tính sáng tạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với thế hệ trẻ. Sáng tạo không đơn thuần là nghĩ ra những điều mới mẻ mà còn là khả năng tư duy linh hoạt, đổi mới cách tiếp cận vấn đề và tìm ra giải pháp hiệu quả trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Với tinh thần sáng tạo, người trẻ có thể khám phá những giới hạn mới, tạo nên sự khác biệt và khẳng định giá trị cá nhân giữa một thế giới đang cạnh tranh không ngừng. Bên cạnh đó, sáng tạo giúp thế hệ trẻ thoát khỏi lối mòn, vượt qua tư duy rập khuôn, từ đó chủ động hơn trong học tập, công việc cũng như trong định hướng tương lai. Đây cũng là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, bởi mỗi ý tưởng đột phá đều có thể trở thành động lực thay đổi thế giới. Vì vậy, thế hệ trẻ cần không ngừng rèn luyện tư duy phản biện, dám nghĩ khác, dám thử sức với điều mới lạ để phát huy tính sáng tạo một cách hiệu quả. Chỉ khi đó, tuổi trẻ mới thực sự trở thành lực lượng tiên phong trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Câu 2:

Bài làm

Văn học luôn là nơi lưu giữ những giá trị sống và vẻ đẹp tâm hồn của con người. Với giọng văn mộc mạc, chân tình, Nguyễn Ngọc Tư – cây bút tiêu biểu của vùng đất Nam Bộ – đã khắc họa thành công những con người bình dị nhưng đầy chiều sâu nội tâm, giàu tình nghĩa trong truyện ngắn Biển người mênh mông. Qua hai nhân vật Phi và ông Sáu Đèo, tác giả đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp của con người Nam Bộ: giàu tình cảm, giàu nghị lực và đầy lòng trắc ẩn giữa cuộc đời nhiều biến động.

Nhân vật Phi hiện lên là một người đàn ông từng trải, chịu nhiều tổn thương từ thuở nhỏ. Sinh ra không có cha, lớn lên trong sự xa cách và thiếu vắng tình thương của mẹ, Phi sớm ý thức về nỗi cô đơn và thân phận lạc lõng của mình giữa biển người. Dù sống thiếu thốn tình cảm, anh không trở nên lạnh lùng hay cay nghiệt, mà vẫn giữ trong mình sự tử tế, trầm lặng và sâu sắc. Anh biết nghe lời ngoại, biết chăm lo cho bản thân khi còn có người quan tâm, và dẫu sống một mình sau khi ngoại mất, anh vẫn không đánh mất nhân tính hay buông xuôi cuộc đời. Trong Phi là hình ảnh của một người con Nam Bộ từng chịu nhiều thiệt thòi nhưng vẫn kiên cường, lặng lẽ bước tiếp bằng chính nội lực của mình.Không chỉ vậy, Phi còn thể hiện vẻ đẹp của lòng trắc ẩn và sự gắn bó giữa người với người trong cộng đồng. Anh không từ chối khi ông Sáu Đèo – người hàng xóm già yếu, nghèo khổ – ngỏ ý gửi lại con bìm bịp trước khi lên đường đi tìm người vợ năm xưa. Sự chấp nhận ấy không chỉ là lòng tốt mà còn là minh chứng cho tình nghĩa giữa những con người xa lạ nhưng biết quan tâm, đùm bọc nhau – một nét đẹp đặc trưng trong văn hóa Nam Bộ.Trong khi đó, ông Sáu Đèo lại là hiện thân sinh động cho chất tình, chất nghĩa của con người phương Nam. Ông từng sống đời sông nước, từng có cuộc sống nghèo nhưng ấm áp bên vợ. Bị bỏ lại không một lời từ biệt, ông vẫn không oán trách, không giận hờn, mà kiên trì đi tìm suốt gần bốn mươi năm chỉ để… xin lỗi. Câu nói “Kiếm để làm gì hả? Để xin lỗi chớ làm gì bây giờ” nghe sao mà chạm đến trái tim người đọc. Đó là sự thủy chung, là cái nghĩa vợ chồng sâu đậm, là lòng kiên trì đến mức gần như phi lý – nhưng đầy nhân bản. Một con người sống cả đời chỉ để thực hiện một điều tử tế, điều đó cho thấy vẻ đẹp đạo đức, tinh thần nghĩa khí và phẩm chất cao quý của người Nam Bộ chân chất.Cả hai nhân vật, mỗi người một hoàn cảnh, một quá khứ, nhưng đều gặp nhau ở tấm lòng nhân hậu, ở khát khao được yêu thương và sẻ chia. Họ chính là hình ảnh đại diện cho lớp người Nam Bộ tuy mộc mạc, nghèo khó nhưng luôn sống bằng trái tim chân thành, bền bỉ và đậm tình người. Giữa dòng đời “biển người mênh mông”, họ có thể bị quên lãng, nhưng tâm hồn và phẩm cách của họ thì lặng thầm tỏa sáng.

Qua nhân vật Phi và ông Sáu Đèo, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ kể một câu chuyện buồn mà còn vẽ nên bức chân dung đẹp về con người Nam Bộ: những con người sống giản dị, giàu nghĩa tình, bền bỉ với niềm tin và lòng nhân hậu. Chính họ đã làm nên chất riêng không thể trộn lẫn của vùng đất phương Nam – nơi có thể nghèo về vật chất, nhưng giàu sang về tình người. Biển người mênh mông không chỉ là nơi con người lạc lối, mà cũng là nơi con người tìm thấy nhau – bằng sự chân thành và tình thương.




Phần I

Câu 1:

-Văn bản trên thuộc kiểu văn bản thuyết minh kết hợp với yếu tố miêu tả.

Câu 2:

-Người buôn bán nhóm họp bằng xuồng, ghe, tắc ráng.

-Người mua cũng đến chợ bằng xuồng, ghe con len lỏi giữa hàng trăm ghe thuyền.

-Dùng “cây bẹo” – cây sào tre dài treo hàng hóa để khách nhận biết từ xa.

-Ghe bán hàng dạo sử dụng kèn bấm tay, kèn đạp chân (kèn cóc) để rao bán.

-Các cô gái bán đồ ăn sử dụng lời rao miệng với giọng lảnh lót, thiết tha.

-Treo tấm lá lợp nhà để rao bán ghe – giống như treo biển bán nhà.

Câu 3:

Việc sử dụng các địa danh như Cái Bè, Cái Răng, Ngã Bảy, Ngã Năm, Phụng Hiệp,… giúp:

-Tăng tính chân thực và cụ thể cho văn bản.

-Giới thiệu, quảng bá các địa điểm văn hóa đặc trưng của miền Tây.

-Gợi hình ảnh phong phú và sinh động về sự đa dạng, phong phú của chợ nổi miền Tây.

Câu 4:

Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ như cây bẹo, âm thanh kèn, vật treo đặc trưng (trái cây, lá lợp…) giúp:

-Truyền đạt thông tin một cách trực quan, sinh động.

-Tạo dấu hiệu nhận biết hàng hóa từ xa, thuận tiện cho người mua.

-Góp phần làm phong phú văn hóa giao thương và tăng sự độc đáo của chợ nổi.

-Thu hút khách hàng bằng thị giác và thính giác một cách hiệu quả.

Câu 5:

-Chợ nổi không chỉ là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa mà còn là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa, tinh thần của người dân miền Tây. Nó phản ánh lối sống sông nước đặc trưng, thể hiện sự khéo léo, linh hoạt và sáng tạo trong sinh hoạt, giao thương. Đồng thời, chợ nổi còn là điểm đến hấp dẫn về du lịch, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại hiện nay.

Bài 2

Câu 1:

Bài làm

Trong xã hội hiện đại đa dạng và không ngừng phát triển, việc tôn trọng sự khác biệt của người khác là một phẩm chất cần thiết, thể hiện tư duy văn minh và lòng nhân ái. Mỗi con người đều có xuất phát điểm, hoàn cảnh sống, tính cách và quan điểm riêng. Sự khác biệt ấy tạo nên bức tranh phong phú của cuộc sống. Tôn trọng sự khác biệt không có nghĩa là đồng tình hoàn toàn, mà là biết lắng nghe, thấu hiểu và không áp đặt cái nhìn chủ quan lên người khác. Khi biết chấp nhận và trân trọng sự khác biệt, chúng ta mở rộng lòng mình để học hỏi, kết nối và sống chan hòa hơn. Ngược lại, định kiến và phán xét dễ dẫn đến xung đột, cô lập, thậm chí gây tổn thương cho người khác và chính bản thân ta. Thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu mỗi người biết sống khoan dung, biết rằng sự khác biệt không phải là rào cản, mà là cơ hội để trưởng thành và hoàn thiện. Vì vậy, tôn trọng sự khác biệt chính là một biểu hiện cao đẹp của nhân cách, góp phần xây dựng một cộng đồng nhân văn, hòa bình và tiến bộ.

Câu 2:

Bài làm

Trong phong trào Thơ mới, bên cạnh những tiếng thơ nồng nàn tình yêu lứa đôi hay hoài niệm thân phận cá nhân, Lưu Trọng Lư đã để lại dấu ấn sâu sắc với những vần thơ giàu cảm xúc gia đình, đặc biệt là tình mẫu tử thiêng liêng. Bài thơ “Nắng mới” là một thi phẩm tiêu biểu của ông, thể hiện tình cảm sâu nặng của người con đối với người mẹ đã khuất. Bằng hình ảnh thiên nhiên chan chứa nắng vàng và dòng hồi ức đầy xúc cảm, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh giản dị mà cảm động về ký ức tuổi thơ, gắn liền với hình bóng thân thương của mẹ. Qua đó, Lưu Trọng Lư không chỉ tái hiện một nỗi nhớ riêng, mà còn khơi dậy những giá trị nhân văn sâu sắc trong tâm hồn người đọc.

Bài thơ mở đầu bằng một khung cảnh thiên nhiên quen thuộc:

“Mỗi lần nắng mới hắt bên song,

Xao xác, gà trưa gáy não nùng,”

Nắng mới là hình ảnh mang tính biểu tượng, gợi nhắc đến sự tươi sáng, bắt đầu của một ngày, nhưng trong cảm xúc của tác giả, ánh nắng ấy lại gợi nỗi buồn man mác. Tiếng gà trưa “gáy não nùng” hòa quyện cùng ánh nắng nhạt bên song cửa tạo nên một không gian tĩnh lặng, xao xác. Đó không chỉ là cảnh vật hiện tại, mà còn là chất xúc tác đánh thức ký ức trong tâm hồn thi nhân:

“Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,

Chập chờn sống lại những ngày không.”

Hai câu thơ như một sự chuyển động mềm mại từ thực tại sang quá khứ. Cụm từ “lòng rượi buồn” gợi một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, như dòng nước ngầm chảy trong tâm hồn. Từ “chập chờn” thể hiện sự mơ hồ, mờ ảo của ký ức – những “ngày không” tức là những ngày đã xa, không còn hiện diện nữa. Tác giả như bị cuốn vào một miền hồi tưởng, nơi đó, có hình bóng thân thương của mẹ.

“Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời

Lúc người còn sống, tôi lên mười;”

Nỗi nhớ mẹ hiện lên cụ thể và chân thành. Chỉ bằng hai câu thơ ngắn, nhà thơ đã tái hiện một quãng đời tuổi thơ – cái thời “lên mười” hồn nhiên và trong trẻo. Từ “me” – cách gọi mẹ quen thuộc ở miền Trung – càng làm tăng chất chân quê, mộc mạc, gần gũi trong tình cảm.

“Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,

Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.”

Hình ảnh người mẹ hiện lên qua khung cảnh rất đỗi bình dị: nắng vàng trên cánh đồng, chiếc áo đỏ được phơi trước giậu. Câu thơ không cần cầu kỳ nhưng vẫn tạo nên một bức tranh sống động, đầy xúc cảm. Ánh nắng reo vui cùng chiếc áo đỏ trở thành ký hiệu của ký ức tuổi thơ đẹp đẽ và hạnh phúc.

“Hình dáng me tôi chửa xoá mờ

Hãy còn mường tượng lúc vào ra:”

Dù thời gian trôi qua, mẹ đã không còn, nhưng trong tâm trí người con, hình dáng mẹ vẫn hiện hữu. Từ “chửa xoá mờ” và “mường tượng” thể hiện sự lưu giữ ký ức một cách sâu đậm, như thể mẹ vẫn hiện diện đâu đây, trong từng bước đi vào ra, trong từng hành động thân quen.

“Nét cười đen nhánh sau tay áo

Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.”

Câu thơ cuối cùng là điểm nhấn đầy cảm xúc: nét cười mẹ – “đen nhánh sau tay áo” – là một hình ảnh độc đáo, gợi vẻ lam lũ, hiền hậu. Khung cảnh “ánh trưa hè” và “giậu thưa” hoàn tất bức tranh tuổi thơ bình dị nhưng thấm đẫm tình yêu thương. Mẹ không chỉ là người chăm lo, tảo tần, mà còn là ánh sáng dẫn đường cho tâm hồn nhà thơ.

Bài thơ Nắng mới của Lưu Trọng Lư không chỉ là một hoài niệm cá nhân, mà còn là tiếng lòng chung của những ai từng trải qua mất mát, từng khắc ghi bóng dáng mẹ trong tâm hồn. Qua những hình ảnh mộc mạc, giọng điệu thiết tha và cảm xúc chân thành, nhà thơ đã khắc họa một nỗi nhớ sâu lắng về mẹ – người đã khuất, nhưng tình yêu thương vẫn vẹn nguyên trong từng khoảnh khắc cuộc sống. Tác phẩm là minh chứng cho giá trị nhân văn sâu sắc của Thơ mới, là biểu tượng của tình mẫu tử bất diệt – thứ tình cảm thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn con người qua bao thế hệ.

Bài 1:

Câu 1:

-Phương thức biểu đạt chính của văn bản là nghị luận.

Câu 2:

Hai cặp từ/cụm từ đối lập là:

  • Tằn tiện – phung phí
  • Ở nhà – ưa bay nhảy

Câu 3:

Tác giả cho rằng đừng nên phán xét người khác dễ dàng vì mỗi người có một hoàn cảnh sống, lối suy nghĩ và lựa chọn riêng. Những nhận định phiến diện, theo định kiến chỉ khiến con người mệt mỏi và có thể dẫn đến sự hiểu lầm, sai lệch trong cách nhìn nhận người khác.

Câu 4:

Quan điểm này cho thấy nếu chúng ta sống theo định kiến của người khác mà không dám sống thật với mình thì cuộc sống sẽ mất tự do và ý nghĩa. Định kiến có thể trói buộc, làm con người đánh mất bản thân. Điều tồi tệ không chỉ là bị người khác phán xét, mà là khi chính ta đánh mất quyền làm chủ cuộc đời mình.

Câu 5:

Em rút ra được thông điệp: Hãy tôn trọng sự khác biệt và đừng vội vàng đánh giá người khác. Quan trọng hơn, hãy sống đúng với bản thân, lắng nghe tiếng nói từ trái tim mình thay vì bị chi phối bởi định kiến xã hội.

Một quả cầu lăn trên sườn núi sẽ có tốc độ ngày càng tăng vì trọng lực tác dụng lên quả cầu có thành phần theo phương chuyển động làm quả cầu gia tốc xuống dốc. Lực này gây ra gia tốc cho quả cầu, làm vận tốc của nó tăng dần theo thời gian.

Nói cách khác, trọng lực là lực gây chuyển động nhanh dần đều cho quả cầu khi lăn xuống dốc.

Bài 2:

a) Thang máy đi lên đều:

→ Lực kéo đúng bằng trọng lực: F = P = m.g = 800.10 = 8000 (N)

→ Công của lực kéo:

A = F.h = 8000 . 12 = 96 000 (J)

b) Thang máy đi lên nhanh dần đều, a = 1 m/s²

→ Lực kéo:

F = P + ma = m(g + a) = 800(10 + 1) = 8800 (N)

→ Công của lực kéo:

A = F.h = 8800 . 12 = 105 600 (J)

Kết luận:

a) A = 96 000 J

b) A = 105 600 J

Bài 2:

a) Thang máy đi lên đều:

→ Lực kéo đúng bằng trọng lực: F = P = m.g = 800.10 = 8000 (N)

→ Công của lực kéo:

A = F.h = 8000 . 12 = 96 000 (J)

b) Thang máy đi lên nhanh dần đều, a = 1 m/s²

→ Lực kéo:

F = P + ma = m(g + a) = 800(10 + 1) = 8800 (N)

→ Công của lực kéo:

A = F.h = 8800 . 12 = 105 600 (J)

Kết luận:

a) A = 96 000 J

b) A = 105 600 J