Trần Thị Kiều

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Trần Thị Kiều
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

câu 1

Bài thơ “Than đạo học” của Tú Xương là một tác phẩm mang đậm tính phê phán và phản ánh sự suy tàn của nền học vấn trong xã hội đương thời. Nội dung bài thơ thể hiện sự chán nản và thất vọng của tác giả trước tình trạng “Đạo học” đã không còn giữ được giá trị như xưa. Những câu thơ như “Mười người đi học, chín người thôi” hay “Sĩ khí rụt rè gà phải cáo” cho thấy sự thiếu nhiệt huyết, động lực học tập trong xã hội lúc bấy giờ. Người học không còn nghiêm túc, mà chỉ đi học để kiếm danh lợi, không có tâm huyết thực sự với việc học hỏi.


Về nghệ thuật, Tú Xương sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, với những câu thơ ngắn gọn nhưng sắc bén. Các từ láy như “lim dim”, “nhấp nhổm”, “rụt rè”, “liều lĩnh” được sử dụng tinh tế để miêu tả hình ảnh những người học không còn sự nghiêm túc, phản ánh một cách sinh động sự thờ ơ và hời hợt trong việc học. Bài thơ sử dụng ngôn từ giản dị, dễ hiểu nhưng lại sâu sắc, mang đến một thông điệp mạnh mẽ về sự tha hóa trong giáo dục và đạo đức học trò thời bấy giờ.

Câu 2

Trong xã hội hiện nay, ý thức học tập của học sinh đang là một vấn đề được quan tâm rất lớn. Lời dạy của các bậc cha ông “Học để thành tài, học để có tương lai” vẫn luôn là kim chỉ nam cho sự nghiệp học hành của mỗi người. Tuy nhiên, trong thực tế, ý thức học tập của nhiều học sinh hiện nay đang có dấu hiệu sa sút. Sự thụ động trong học tập, thiếu tinh thần cầu tiến, và đặc biệt là việc học chỉ vì điểm số, danh lợi đã trở thành một hiện tượng phổ biến.


Trước hết, một phần lớn học sinh hiện nay học tập vì áp lực từ gia đình và xã hội. Nhiều phụ huynh đặt kỳ vọng quá lớn vào con cái, đẩy chúng vào một cuộc đua thành tích. Do đó, nhiều học sinh không học vì đam mê hay mong muốn khám phá tri thức, mà chỉ đơn giản là để đạt được kết quả cao, để không làm phụ lòng cha mẹ. Điều này khiến học sinh không thể phát huy hết khả năng sáng tạo và tư duy độc lập.Bên cạnh đó, công nghệ và mạng xã hội cũng có tác động tiêu cực đến ý thức học tập của học sinh. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, các em dễ dàng bị xao nhãng bởi các trò chơi, phim ảnh hay các hoạt động giải trí không lành mạnh. Việc dành quá nhiều thời gian cho các thiết bị điện tử khiến các em mất đi sự tập trung vào việc học, không còn kiên nhẫn trong việc tìm tòi kiến thức. Thậm chí, một số học sinh còn tìm cách gian lận trong học tập, làm giảm đi giá trị thực sự của việc học.Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng cũng có nhiều học sinh vẫn giữ được ý thức học tập nghiêm túc, biết tự giác học hỏi và nỗ lực vươn lên. Những học sinh này hiểu rằng, học tập không chỉ là để có điểm số cao mà còn là để tích lũy kiến thức, phát triển bản thân và đóng góp cho xã hội. Các em không chỉ học vì tương lai cá nhân mà còn để thực hiện ước mơ, hoài bão của mình.Để nâng cao ý thức học tập của học sinh, cần phải có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Gia đình cần tạo điều kiện thuận lợi cho con em học tập, đồng thời động viên các em học vì đam mê và sở thích, không chỉ vì thành tích. Nhà trường cần xây dựng một môi trường học tập thân thiện, giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo, khơi dậy niềm đam mê học hỏi. Đồng thời, học sinh cũng cần ý thức được vai trò của bản thân trong việc học tập, tự giác và chủ động trong việc tiếp thu kiến thức.

Tóm lại, ý thức học tập của học sinh hiện nay có những mặt tích cực và tiêu cực. Để nâng cao chất lượng giáo dục, mỗi học sinh cần nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của việc học, không chỉ vì điểm số mà còn vì sự phát triển toàn diện của bản thân. Chỉ khi học sinh hiểu được giá trị của tri thức, thì việc học mới thực sự mang lại hiệu quả lâu dài.



Câu 1 thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật

Câu 2

Đề tài của bài thơ này là sự phê phán, chỉ trích tình trạng suy thoái của nền học vấn và giáo dục trong xã hội đương thờ

Câu 3

Tác giả cho rằng “Đạo học ngày nay đã chán rồi” vì tình trạng giáo dục đã xuống cấp, không còn sự say mê học hỏi như xưa. Những người đi học không còn khát khao học hỏi mà chỉ chú trọng vào việc kiếm danh lợi. Câu “Mười người đi học, chín người thôi” cho thấy số lượng người thực sự chú tâm vào học ngày càng ít, chỉ còn những người không có sự nghiêm túc trong học hành.


Câu 4:

Tác giả sử dụng các từ láy như “lim dim”, “nhấp nhổm”, “rụt rè”, “liều lĩnh” để tăng thêm tính hình tượng và cảm xúc cho bài thơ. Các từ láy này giúp diễn tả sự mơ màng, thiếu nghiêm túc, lo lắng, thiếu quyết đoán của những người học trong xã hội thời đó, từ đó thể hiện sự chán nản và thất vọng của tác giả đối với nền giáo dục và đạo học.


Câu 5:

Bài thơ phản ánh sự suy tàn của “Đạo học” trong xã hội đương thời, phê phán sự thiếu nghiêm túc và tinh thần học hỏi của người học. Tác giả cho rằng nhiều người đi học chỉ để kiếm danh lợi, không có tâm huyết, trong khi giáo dục và học vấn đã trở nên lạc lõng và thiếu sức sống. Bài thơ thể hiện sự thất vọng và chán nản của tác giả đối với tình trạng này.


Câu 1

Trong hành trình dài rộng của cuộc đời, mỗi người đều cần có một “điểm neo” – một chốn bình yên để dừng lại, nghỉ ngơi và tìm lại chính mình. “Điểm neo” có thể là gia đình, quê hương, một người thân yêu, hay đơn giản là những giá trị sống bền vững giúp ta giữ vững niềm tin giữa bao biến động. Giữa bộn bề lo toan và áp lực, khi ta mỏi mệt hay lạc lối, chính “điểm neo” ấy sẽ là nơi níu giữ ta lại, nhắc ta nhớ mình là ai, mình từng bắt đầu từ đâu, và vì sao mình phải tiếp tục. Không có “điểm neo”, con người dễ bị cuốn trôi trong dòng đời vô định, dễ mất phương hướng và đánh mất bản thân. Vì vậy, việc tìm và giữ cho mình một “điểm neo” là điều vô cùng quan trọng. Đó là nơi nâng đỡ ta về tinh thần, là động lực để ta sống mạnh mẽ và có trách nhiệm hơn. Cuộc đời rộng lớn, nhưng với một điểm neo vững chắc, ta sẽ không còn thấy mình đơn độc giữa biển đời mênh mông.

Câu 2

Bài thơ Việt Nam ơi là một tiếng gọi tha thiết, xúc động từ trái tim hướng về Tổ quốc. Không chỉ truyền tải tình yêu nước sâu nặng, văn bản này còn gây ấn tượng mạnh mẽ nhờ những nét đặc sắc về nghệ thuật, làm nên một bản hùng ca mang đậm màu sắc tự hào dân tộc.

Trước hết, điểm nổi bật nhất về nghệ thuật của bài thơ là giọng điệu thiết tha, hào hùng và đầy cảm xúc. Câu thơ điệp “Việt Nam ơi!” lặp đi lặp lại nhiều lần không chỉ là lời gọi thân thương, mà còn là tiếng reo vui, là tiếng lòng rưng rưng của người con xa quê hay người đang chứng kiến những đổi thay, trăn trở của đất nước. Chính sự lặp lại này tạo nên nhịp điệu dồn dập, ngân vang như tiếng trống thúc giục, khơi gợi tình yêu nước nồng nàn trong lòng người đọc.Thứ hai, bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh giàu tính biểu tượng và gợi cảm, kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và hiện đại. Những hình ảnh như “lời ru của mẹ”, “cánh cò bay”, “truyền thuyết mẹ Âu Cơ”, “bể dâu, thác ghềnh”, “biển xanh, nắng lung linh”… vừa gần gũi, vừa giàu chất thơ, gợi nên một đất nước thân quen, mang chiều sâu văn hóa và lịch sử. Hình tượng Việt Nam không chỉ là không gian địa lý mà còn là nơi chất chứa ký ức, truyền thống, hào khí và khát vọng tương lai.Ngoài ra, biện pháp tu từ được sử dụng phong phú cũng là một điểm nhấn nghệ thuật trong bài. Điệp ngữ, hoán dụ, ẩn dụ, đối lập, liệt kê,… đều được vận dụng linh hoạt. Chẳng hạn, “dẫu có điêu linh, dẫu có thăng trầm” – sự đối lập giữa khó khăn và tinh thần vượt lên, hay cụm từ “đường đến vinh quang nhiều bão tố phong ba” là một hình ảnh ẩn dụ giàu tính chiến đấu, thể hiện ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam.

Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc cá nhân và tinh thần cộng đồng. Tác giả không chỉ nói lên tình cảm của riêng mình mà còn đại diện cho tiếng nói chung của bao người con đất Việt – những người luôn khắc khoải với “trăn trở hôm nay”, luôn “nghe đâu đây lời tổ tiên vang vọng” và khao khát được dựng xây đất nước.



Câu 1:Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản là: thuyết minh.

Câu 2 Hiện tượng sao T Coronae Borealis (T CrB) – một hệ sao sắp bùng nổ (nova) và có thể quan sát được từ Trái Đất vào năm 2025.

Câu 3 Cung cấp thông tin lịch sử cụ thể, rõ ràng (năm 1866, năm 1946) giúp người đọc hiểu quá trình theo dõi và nghiên cứu về T CrB.

Sử dụng mốc thời gian và chu kỳ lặp lại (khoảng 80 năm) tạo ra tính logic, thuyết phục cho nhận định T CrB sắp nổ trở lại.

Câu văn có cấu trúc liên kết tốt, kết hợp yếu tố diễn giải và suy luận, làm tăng tính khoa học và hấp dẫn cho nội dung.

Câu 4.

Mục đích của văn bản:

Cung cấp thông tin khoa học cập nhật về sự kiện thiên văn hiếm gặp – vụ nổ nova của hệ sao T CrB.

Gợi mở sự quan tâm, khuyến khích người yêu thiên văn theo dõi hiện tượng này.

Nội dung chính của văn bản:Giới thiệu về hệ sao T CrB và cơ chế bùng nổ nova.

Lịch sử quan sát T CrB, dấu hiệu hiện tại cho thấy nó sắp bùng nổ.

Dự đoán thời điểm và cách quan sát hiện tượng trên bầu trời.





Câu 5.Phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng:

Hình ảnh minh họa vị trí của T CrB trên bầu trời.

Tác dụng:Giúp người đọc dễ dàng hình dung vị trí của ngôi sao khi quan sát thực tế.

Tăng tính trực quan và sinh động cho văn bản.

Hỗ trợ nội dung thuyết minh, làm rõ thông tin khoa học bằng hình ảnh cụ thể.







Trong đoạn trích Trai anh hùng, gái thuyền quyên, Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng Từ Hải như một người anh hùng lý tưởng, mang vẻ đẹp phi thường cả về ngoại hình lẫn khí chất. Từ Hải hiện lên với tầm vóc kỳ vĩ: “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, gợi nên một con người vượt trội, mạnh mẽ, mang tầm vóc của bậc trượng phu đội trời đạp đất. Không chỉ có sức mạnh, Từ còn là người “côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài” – hội tụ đầy đủ tài trí của một bậc anh hùng. Đặc biệt, Từ Hải không chỉ chinh phục giang hồ mà còn biết trân trọng cái đẹp, tài và khí phách của Thúy Kiều. Cuộc gặp gỡ và nên duyên với Kiều không chỉ thể hiện sự xứng đôi vừa lứa, mà còn cho thấy Từ là người trọng nghĩa tình, biết nhìn người, coi trọng tri kỉ. Qua đó, Nguyễn Du đã lý tưởng hóa Từ Hải như biểu tượng của công lý, tự do và khát vọng sống lớn, đồng thời gửi gắm ước mơ về một đấng anh hùng lý tưởng có thể che chở và giải thoát cho những số phận bất hạnh như Thúy Kiều.


Tiêu chí

Thanh Tâm Tài Nhân

Nguyễn Du

Bút pháp

Hiện thực

Lý tưởng hóa, sử thi

Ngoại hình

Không nhấn mạnh ngoại hình

Khắc họa kỳ vĩ, phi thường: “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”

Xuất thân

Thực tế: từng đi thi, làm thương nhân

Không đề cập quá khứ đời thường, tập trung tôn vinh khí phách

Tính cách

Phóng khoáng, thích giao du, trọng tài sắc

Khí phách hiên ngang, tài thao lược, chí lớn “đội trời đạp đất”

Mục đích gặp Kiều

Vì nghe danh tài sắc và khí phách của Kiều

Gặp gỡ mang tính định mệnh, xứng đôi “trai anh hùng, gái thuyền quyên”


Một số điển tích, điển cố trong văn bản:

Tấn Dương: Kinh đô nhà Hán, nơi Lưu Bang gặp Lữ Hậu – chỉ mối duyên quý hiếm.

Mây rồng: Biểu tượng cho duyên kỳ ngộ, vinh hiển.

Mắt xanh: Chỉ ánh mắt yêu mến, trọng dụng người tài.

Phượng – rồng: Biểu tượng cho cặp đôi xứng lứa vừa đôi.



kể về cuộc gặp gỡ và nên duyên giữa Thúy Kiều và Từ Hải, một trang anh hùng cái thế.