

Phạm Phương Mai
Giới thiệu về bản thân



































II. PHẦN VIẾT (6.0 ĐIỂM)
Câu 1.
Bốn mùa trong năm ở thành phố cổ kính, mỗi mùa lại mang một vẻ đẹp riêng biệt, một nét hút hồn con người bằng những cách khác nhau. Nếu như mùa xuân là lúc người ta đang háo hức chờ đợi bánh chưng, hoa đào ngày Tết, mùa đông là lúc những ngày lễ nhộn nhịp làm bừng sáng lên cả thành phố khỏi những ảm đạm của thời tiết, thì mùa thu lại thu hút người ta bằng sự nhẹ nhàng, nhịp sống chậm rãi của mình. Có lẽ cũng vì say mê cái đẹp nhẹ nhàng ấy mà tác giả Hoàng Cát đã đặt bút viết nên thi phẩm "Thu Hà Nội".
Vẻ đẹp của mùa thu vốn đã đi sâu vào nghệ thuật từ lâu. Từ những bức tranh tứ quý, đến những bài thơ Trung đại, cho tới cả những vở kịch, bài hát từ xa xưa. Mùa thu đẹp là vậy, nhẹ nhàng là vậy nhưng dường như vẫn ẩn dấu trong mình đâu đây sự trầm buồn, yên lặng. Thu Hà Nội tựa như một "nàng thơ" thanh mảnh, tuy xinh đẹp là vậy nhưng phảng phất trên gương mặt nàng vẫn là một nỗi buồn không thể giãi bày với ai. "Nàng thơ" ấy đã khiến cho biết bao chàng thi sĩ si tình phải mê, phải yêu, phải viết ra để cho mọi người thấy được tình cảm của mình. Anh chàng thi sĩ Hoàng Cát tựa hồ như cũng đã thương lấy điều đó, nhưng không mĩ miều hóa, không nâng cao vẻ đẹp của "nàng" mà cảm nhận mùa thu Hà Nội bằng những điều đơn giản, gần gũi nhất:
Se se gió heo may, xào xạc lạnh
Lá vàng khô lùa trên phố bâng khuâng
Mùa thu là lúc mà những cái nắng oi ả của mùa hạ đã qua đi, thay vào đó là cái lạnh se se, man mát. Mỗi khi gió heo may thổi, con người như tự nhắc nhở mình: "Mùa thu đã tới rồi". Thu tới, cũng là lúc mà lá cây ngả vàng, dần dần kết thúc vòng đời của mình và chào cây để về với đất. Trên những cành cây cao, chỉ còn vài chiếc lá vẫn đang lưu luyến mà chưa thể nói lời tạm biệt. Con đường trải đầy lá rụng xào xạc theo mỗi bước chân của người đang đi trên phố. Tựa hồ như tâm trạng rối bời của nhân vật trữ tình bị treo lại lơ lửng, bâng khuâng dần dần dịu xuống, bay theo những cơn gió kia đi đến một nơi thật xa. Thế nhưng, mùa thu đâu phải là chỉ trầm buồn như vậy. Không chỉ khắc họa thiên nhiên, nhà thơ còn bộc lộ cảm xúc sâu kín của nhân vật trữ tình – một tâm hồn nhạy cảm, cô đơn và khắc khoải: “Ta lặng lẽ một mình. Chiều nhạt nắng / Nhớ người xa / Người xa nhớ ta chăng?”. Câu hỏi tu từ cuối khổ đầu như một tiếng thở dài dồn nén bao cảm xúc, làm nổi bật nỗi nhớ khôn nguôi và sự mong manh của lòng người giữa không gian mùa thu. Thu vẫn lưu giữ lại những kỉ niệm, những sức sống tiềm ẩn đang sục sôi sâu bên trong mình:
Ô! Hàng sấu vẫn còn đây quả sót
Rụng vu vơ một trái vàng ươm
Ta nhặt được cả chùm nắng hạ
Trong mùi hương trời đất dậy trên đường
Gió heo may giúp cho mùi hương sấu chín bay đi xa hơn nhưng vẫn cứ vẩn vương nơi đầu mũi. Màu vàng đậm của sấu chín tựa như những mặt trời nhỏ, soi sáng cho bầu trời phủ mây ngày thu. Thu như làm nền cho cuộc sống sôi động của con người, là lúc các em nhỏ được cùng nhau trông trăng phá cỗ, là những khoảng khắc khai trường với màu áo trắng mộng mơ. Mùa thu trầm buồn là vậy nhưng những vẻ đẹp mà mùa thu mang lại làm sao khiến ai đã chứng kiến qua lại quên được.
Bài thơ tuy không sử dụng quá nhiều biện pháp tu từ hay ngôn ngữ hoa mĩ nhưng lại vô cùng khiến người ta ấn tượng. Sự giản dị, mộc mạc của ngôn từ đã khiến cho chúng ta mường tượng được ra một bức tranh mùa thu Hà Nội với đong đầy những nét gợi hình, gợi cảm. Mùa thu Hà Nội thông qua nét bút của nhà thơ Hoàng Cát tựa như sống dậy trong tâm trí của độc giả cả nước.
Mùa thu Hà Nội từ lâu đã đi vào lòng độc giả cả nước. Thế nhưng, tác phẩm "Thu Hà Nội" của nhà thơ Hoàng Cát vẫn đạt được một vị trí riêng của mình trong kho tàng thơ ca đồ sộ của nước nhà.
Câu 2.
Trong kỷ nguyên công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI – Artificial Intelligence) đã không còn là một khái niệm xa vời trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng, mà đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng, thậm chí như “vũ bão” của AI đang đặt ra không chỉ những cơ hội to lớn mà còn cả những thách thức sâu sắc cho con người trong mọi lĩnh vực từ kinh tế, giáo dục đến y tế, nghệ thuật và đạo đức xã hội.
AI được hiểu là trí tuệ được tạo ra bởi máy móc, có khả năng học hỏi, phân tích và xử lý thông tin như con người – thậm chí trong nhiều trường hợp còn nhanh và chính xác hơn. Từ những ứng dụng đơn giản như trợ lý ảo, phần mềm nhận diện khuôn mặt, chatbot… cho đến các hệ thống tự động hóa trong sản xuất, xe tự lái, AI đang góp phần làm thay đổi căn bản cách con người sống, làm việc và tư duy. Đặc biệt, trong những năm gần đây, AI đã có những bước tiến vượt bậc nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ học sâu (deep learning) và dữ liệu lớn (big data). Những mô hình AI như ChatGPT, AlphaGo hay Midjourney đã chứng minh khả năng của máy móc không chỉ dừng lại ở việc tính toán mà còn có thể “sáng tạo” và “tư duy”.
Sự phát triển của AI mang đến nhiều lợi ích đáng kể. Trong lĩnh vực y tế, AI giúp chẩn đoán bệnh nhanh chóng, hỗ trợ phẫu thuật chính xác và cá nhân hóa phương pháp điều trị. Trong giáo dục, AI có thể thiết kế chương trình học riêng biệt cho từng học sinh, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Trong kinh doanh, AI giúp doanh nghiệp phân tích thị trường, tối ưu hóa quy trình sản xuất và nâng cao trải nghiệm khách hàng. AI cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo hay an ninh mạng.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh và mạnh mẽ của AI cũng đặt ra nhiều mối lo ngại. Trước hết là nguy cơ thay thế con người trong nhiều ngành nghề, dẫn đến thất nghiệp và bất bình đẳng xã hội gia tăng. Thứ hai là vấn đề đạo đức và kiểm soát AI: khi máy móc ngày càng “thông minh”, ai sẽ là người chịu trách nhiệm nếu chúng gây ra sai lầm? Ngoài ra, AI còn có thể bị lợi dụng để phục vụ cho các mục đích tiêu cực như tạo tin giả (fake news), xâm phạm quyền riêng tư, hay gây ra chiến tranh mạng. Bởi vậy, song song với việc phát triển AI, con người cần có cơ chế kiểm soát, pháp lý chặt chẽ và một tầm nhìn đạo đức để đảm bảo AI phục vụ con người, chứ không làm lu mờ hay vượt mặt con người.
Tóm lại, trí tuệ nhân tạo đang và sẽ tiếp tục là một động lực quan trọng của thời đại. Nếu được định hướng đúng đắn, AI có thể trở thành công cụ hữu ích giúp con người giải quyết nhiều vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, con người cũng cần tỉnh táo và chủ động để kiểm soát sự phát triển này, đặt yếu tố đạo đức và nhân văn lên hàng đầu trong quá trình thiết kế và sử dụng AI. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể tận dụng sức mạnh của trí tuệ nhân tạo một cách hiệu quả và bền vững trong tương lai.
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là Biểu cảm
Câu 2.
Những từ ngữ, hình ảnh thể hiện năm khốn khó trong đoạn trích là : đồng sau lụt, bờ đê lụt lở, gánh gồng xộc xệch, chịu đói suốt ngày tròn , ngồi co ro; ngô hay khoai.
Câu 3.
Biện pháp tu từ: Ẩn dụ (vuông đất- chỉ nấm mồ của mẹ)/Nói tránh
-Tác dụng:
+ Tăng sức gợi hình, gợi cảm, làm câu thơ thêm sinh động, hấp dẫn hơn
+ Làm giảm sự đau xót khi nhớ về người mẹ đã qua đời.
Câu 4.
Câu thơ "Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn" nhấn mạnh sự vất vả, khó nhọc của mẹ khi phải đối mặt với những gian khổ, lo toan trong cuộc sống, đặc biệt là khi ngày tàn, hoàng hôn buông xuống, cũng như thể hiện hình ảnh người mẹ chịu đựng gian lao trong cảnh nghèo khó. Hình ảnh người mẹ nghèo khổ suốt đời, tần tảo, chịu thương chịu khó trong cuộc mưu sinh để nuôi con nên người. Biểu hiện sự thấu hiểu và cũng là tình cảm vừa thương xót vừa tri ân, kính trọng dành cho mẹ của nhà thơ.
Câu 5.
Qua đoạn trích trên ta thấy tình mẫu tử được tác giả gửi gắm một cách đặc sắc và ý nghĩa qua những áng văn. Tình mẫu tử từ lâu đã trở thành một trong những tình cảm máu thịt cao quý và thiêng liêng nhất đối với mỗi con người. Tình mẫu tử là khái niệm thuộc phạm trù tinh thần, được hiểu là tình cảm gắn bó, yêu thương, ruột thịt của mẹ và con. Đây là tình cảm được xuất phát từ hai phía, mẹ yêu thương con, con kính trọng, hiếu thuận với mẹ. Tình mẫu tử trong xã hội được biểu hiện đa dạng với những hành động cụ thể khác nhau. Chúng ta có thể bắt gặp những bà mẹ tảo tần, lặn lội sương gió, yêu thương, che chở và hy sinh cả cuộc đời mình vì con cái; bắt gặp người con hiếu thảo, chăm sóc, bảo vệ mẹ già. Đó đều là hành động minh chứng cho tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp và đáng trân trọng. Tình mẫu tử như một bài ru ngọt ngào, tiếp thêm động lực, sức mạnh cho cả mẹ và con trước bất kì khó khăn, gian khổ nào của cuộc đời. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn không khỏi đau xót và phẫn uất trước tình trạng tha hóa đạo đức khi mẹ ruột nhẫn tâm vứt bỏ con cái của mình, khi con cái đánh đập, bất hiếu với cha mẹ già đã tảo tần hi sinh ngày nào....Chính vì vậy, chúng ta cần có giải pháp kịp thời để ngăn chặn hành vi đi trái với đạo đức đó, cưu mang, cứu giúp kịp thời những hoàn cảnh đáng thương của sự suy đồi về nhân cách của con người.
Câu 1:
Nói đến tuổi trẻ, chắc hẳn mỗi chúng ta đều nghĩ ngay đến sự sục sôi, nhiệt huyết, những điều tươi mới, hoài bão lớn về một tương lai xán lạn. Mỗi bạn trẻ đều phải trang bị cho mình những mục tiêu và sự sáng tạo trong công việc cũng như cuộc sống để đạt được kết quả tốt nhất. Vậy thế nào là sự sáng tạo và chúng có ý nghĩa ra sao? Tính sáng tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay, nhất là trong bối cảnh xã hội đang thay đổi nhanh chóng. Sáng tạo không chỉ là khả năng nghĩ ra những ý tưởng mới mẻ, mà còn là cách tiếp cận vấn đề một cách độc đáo, tìm ra giải pháp hiệu quả cho những thử thách trong cuộc sống. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và toàn cầu hóa, thế hệ trẻ có nhiều cơ hội nhưng cũng đối diện với không ít thách thức. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, người trẻ có sự sáng tạo sẽ dễ dàng vượt qua khó khăn, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới, thậm chí là thay đổi cả cách thức làm việc hay suy nghĩ. Hơn nữa, sáng tạo còn là yếu tố quan trọng giúp thế hệ trẻ thể hiện cá tính, khám phá và phát triển tiềm năng bản thân. Nước ta muốn vươn lên đứng ngang tầm với các quốc gia khác thì phẩm chất năng động sáng tạo là vô cùng cần thiết. Mỗi một lần sáng tạo là mỗi lần ta chạm đến bộ óc của nhân loại. Giúp bộ óc đó phát triển vượt bậc và ngày càng thành công. Hãy tin vào bản thân mình có thể mở ra một cánh cửa mới của thế giới. Hãy luôn tích cực năng động sáng tạo, đừng cảm thấy xấu hổ khi có điều gì sai sót. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng trong cuộc sống hiện nay vẫn còn có nhiều người có tư duy, lối sống lạc hậu không chịu tiếp thu, sáng tạo để tiến bộ mà cứ ôm khư khư cách nghĩ của mình,… những người này sẽ khó có thể tối ưu hóa được cuộc sống và trở nên bảo thủ, trì trệ. Mỗi người sẽ có một lối tư duy, sáng tạo khác nhau. Không một ai là hoàn hảo, nhưng khi ta biết cố gắng hoàn thiện bản thân và vươn lên phía trước, chúng ta sẽ đạt được những thành quả xứng đáng với công sức bỏ ra.
Câu 2:
Trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam, Nguyễn Ngọc Tư – một trong những cây bút tiêu biểu của văn học Nam Bộ đương đại – luôn khiến người đọc lặng đi bởi giọng văn trầm buồn, đậm chất nhân văn và những câu chuyện đầy xúc động về những phận người bé nhỏ. Truyện ngắn Biển người mênh mông là một trong những tác phẩm sâu sắc như thế. Qua hai nhân vật chính – Phi và ông Sáu Đèo – tác giả không chỉ dựng lên bức tranh về thân phận con người trong đời sống hiện đại mà còn gửi gắm hình ảnh con người Nam Bộ: dù nhỏ bé, bất hạnh và lạc lõng giữa “biển người” nhưng vẫn mang trong mình tình cảm thủy chung, nghĩa tình và khát vọng sống đầy nhân văn.
Trước hết, truyện ngắn khắc họa hình ảnh những con người nhỏ bé, bất hạnh, lưu lạc giữa cuộc đời. Phi là một thanh niên sinh ra đã thiếu thốn tình cảm gia đình: không có cha bên cạnh, mẹ sớm bỏ đi, sống trong vòng tay duy nhất của người bà. Cậu lớn lên giữa ánh nhìn lạnh lẽo của người cha, sự hờ hững của người mẹ, và sự rời rạc trong mối quan hệ máu mủ. Cuộc sống của Phi trôi qua trong cô đơn, không bám víu, không điểm tựa, không cả niềm tin. Còn ông Sáu Đèo – một ông già nghèo khổ, sống cùng con bìm bịp, phiêu bạt qua ba mươi ba chỗ ở chỉ để kiếm tìm người vợ đã bỏ đi không từ biệt sau một lần cãi vã. Hai con người, hai thế hệ, hai số phận nhưng đều cùng chung một điểm: là những kẻ bị bỏ lại trong thế giới rộng lớn, bị cuốn vào dòng chảy mênh mông của cuộc sống mà không có nơi nào thật sự là “nhà”.
Tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh ấy, họ hiện lên như những con người không ngừng kiếm tìm, khao khát hạnh phúc. Phi dù sống lôi thôi, vật vờ qua ngày, vẫn không đánh mất khát vọng kết nối với con người, khát vọng được thương yêu và được quan tâm. Khi nhận nuôi con bìm bịp thay ông Sáu Đèo, anh như tự nguyện gánh vác một mối duyên, một món nợ nghĩa tình – điều tưởng như vô nghĩa giữa phố thị lạnh lùng, nhưng lại chính là ngọn lửa ấm hiếm hoi trong đời Phi. Còn ông Sáu Đèo, suốt gần bốn mươi năm, sống nghèo đói, dời chỗ liên tục chỉ để “xin lỗi chớ làm gì bây giờ”, vẫn không ngừng đi, không ngừng tin – như thể cả đời ông được duy trì chỉ bằng niềm hy vọng mong manh rằng vợ ông vẫn còn đâu đó. Sự bền bỉ và tha thiết ấy chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất của khát vọng yêu thương và tìm lại hạnh phúc.
Từ đó, Nguyễn Ngọc Tư còn khắc họa rõ nét tình yêu sâu nặng với quê hương, xứ sở – thứ gắn bó máu thịt với tâm hồn Nam Bộ. Dù rời bỏ miền quê nghèo, lên phố thị học tập và sinh sống, nhưng Phi vẫn giữ một nếp sống thô mộc, chân chất. Trong anh, dường như không có gì thuộc về nơi chốn đông đúc kia, mà chỉ có âm vang của bà ngoại, của mái nhà cũ, của ký ức quê nhà còn vương vất. Ông Sáu Đèo cũng vậy – một con người lênh đênh sông nước, sống gắn bó với ghe, với chợ nổi, với con bìm bịp – tất cả đều là biểu tượng của đời sống miệt vườn miền Tây. Trong hai con người ấy, quê hương không phải là địa danh, mà là nơi giữ gìn nhân cách, là nơi chở che cho những tâm hồn cô độc.
Cao đẹp hơn hết chính là tình cảm thủy chung, vị tha, tấm lòng yêu thương vô bờ mà họ dành cho người khác. Ông Sáu Đèo thủy chung với người vợ đã rời bỏ mình gần bốn mươi năm, chưa một lần buông bỏ hy vọng. Dù từng bị tổn thương, ông không oán giận mà chỉ mong được “xin lỗi”. Phi – tưởng như thờ ơ, phó mặc với đời – nhưng khi nhận lời chăm sóc con bìm bịp, anh đã thể hiện một tấm lòng nghĩa tình hiếm có. Giữa “biển người mênh mông”, họ là những con người bé nhỏ nhưng mang tấm lòng bao la, sống chân thành, vị tha, không tính toán thiệt hơn. Họ là hiện thân của cái chất người rất đỗi Nam Bộ: giản dị mà sâu sắc, mộc mạc mà thủy chung.
Thành công của truyện ngắn còn đến từ nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc. Nguyễn Ngọc Tư không tạo ra những biến cố kịch tính, mà đặt nhân vật trong những tình huống tâm trạng – nơi nội tâm được bộc lộ một cách tự nhiên. Cốt truyện đơn giản, như một lát cắt nhỏ trong đời sống, nhưng lại mở ra chiều sâu của số phận. Tác giả sử dụng điểm nhìn linh hoạt, di chuyển giữa các nhân vật để làm nổi bật những góc nhìn đa chiều. Ngôn ngữ truyện đậm chất Nam Bộ: vừa mộc mạc, dân dã, vừa đậm đà cảm xúc. Những chi tiết được chọn lọc giàu chất thơ như con bìm bịp, cái đầu tóc Phi, ánh mắt của người cha, giọng kể của ông Sáu... đều góp phần gợi nên nỗi buồn man mác, ngậm ngùi, rất riêng trong văn Nguyễn Ngọc Tư.
Biển người mênh mông là truyện ngắn giàu giá trị nhân văn, không chỉ khắc họa chân thực thân phận con người mà còn tôn vinh vẻ đẹp nội tâm – thứ vẻ đẹp bền vững và cảm động nhất. Phi và ông Sáu Đèo là những nhân vật tiêu biểu cho số phận và vẻ đẹp của con người Nam Bộ: sống trong đau thương nhưng vẫn nghĩa tình, thủy chung, không đánh mất nhân cách giữa cuộc đời. Tác phẩm gợi lên trong lòng người đọc sự đồng cảm với những phận đời lạc lõng, nhắc nhở chúng ta phải biết trân quý hơn tình thân, tình người, và hạnh phúc đang có. Đồng thời, đó cũng là lời cảnh tỉnh về sự thờ ơ, vô cảm đang làm nên “biển người mênh mông” – nơi con người có thể nhìn thấy nhau mà không thể chạm đến nhau.
Với truyện ngắn này, Nguyễn Ngọc Tư một lần nữa khẳng định tài năng trong việc khai thác những góc khuất của tâm hồn con người, thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân văn cùng lối viết tinh tế, giàu chất thơ. Văn chương của chị không làm ta rơi nước mắt, nhưng khiến ta lặng đi vì day dứt – và Biển người mênh mông là một minh chứng sâu sắc cho điều ấy.
Câu 1:
Nói đến tuổi trẻ, chắc hẳn mỗi chúng ta đều nghĩ ngay đến sự sục sôi, nhiệt huyết, những điều tươi mới, hoài bão lớn về một tương lai xán lạn. Mỗi bạn trẻ đều phải trang bị cho mình những mục tiêu và sự sáng tạo trong công việc cũng như cuộc sống để đạt được kết quả tốt nhất. Vậy thế nào là sự sáng tạo và chúng có ý nghĩa ra sao? Tính sáng tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay, nhất là trong bối cảnh xã hội đang thay đổi nhanh chóng. Sáng tạo không chỉ là khả năng nghĩ ra những ý tưởng mới mẻ, mà còn là cách tiếp cận vấn đề một cách độc đáo, tìm ra giải pháp hiệu quả cho những thử thách trong cuộc sống. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và toàn cầu hóa, thế hệ trẻ có nhiều cơ hội nhưng cũng đối diện với không ít thách thức. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, người trẻ có sự sáng tạo sẽ dễ dàng vượt qua khó khăn, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới, thậm chí là thay đổi cả cách thức làm việc hay suy nghĩ. Hơn nữa, sáng tạo còn là yếu tố quan trọng giúp thế hệ trẻ thể hiện cá tính, khám phá và phát triển tiềm năng bản thân. Nước ta muốn vươn lên đứng ngang tầm với các quốc gia khác thì phẩm chất năng động sáng tạo là vô cùng cần thiết. Mỗi một lần sáng tạo là mỗi lần ta chạm đến bộ óc của nhân loại. Giúp bộ óc đó phát triển vượt bậc và ngày càng thành công. Hãy tin vào bản thân mình có thể mở ra một cánh cửa mới của thế giới. Hãy luôn tích cực năng động sáng tạo, đừng cảm thấy xấu hổ khi có điều gì sai sót. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng trong cuộc sống hiện nay vẫn còn có nhiều người có tư duy, lối sống lạc hậu không chịu tiếp thu, sáng tạo để tiến bộ mà cứ ôm khư khư cách nghĩ của mình,… những người này sẽ khó có thể tối ưu hóa được cuộc sống và trở nên bảo thủ, trì trệ. Mỗi người sẽ có một lối tư duy, sáng tạo khác nhau. Không một ai là hoàn hảo, nhưng khi ta biết cố gắng hoàn thiện bản thân và vươn lên phía trước, chúng ta sẽ đạt được những thành quả xứng đáng với công sức bỏ ra.
Câu 2:
Trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam, Nguyễn Ngọc Tư – một trong những cây bút tiêu biểu của văn học Nam Bộ đương đại – luôn khiến người đọc lặng đi bởi giọng văn trầm buồn, đậm chất nhân văn và những câu chuyện đầy xúc động về những phận người bé nhỏ. Truyện ngắn Biển người mênh mông là một trong những tác phẩm sâu sắc như thế. Qua hai nhân vật chính – Phi và ông Sáu Đèo – tác giả không chỉ dựng lên bức tranh về thân phận con người trong đời sống hiện đại mà còn gửi gắm hình ảnh con người Nam Bộ: dù nhỏ bé, bất hạnh và lạc lõng giữa “biển người” nhưng vẫn mang trong mình tình cảm thủy chung, nghĩa tình và khát vọng sống đầy nhân văn.
Trước hết, truyện ngắn khắc họa hình ảnh những con người nhỏ bé, bất hạnh, lưu lạc giữa cuộc đời. Phi là một thanh niên sinh ra đã thiếu thốn tình cảm gia đình: không có cha bên cạnh, mẹ sớm bỏ đi, sống trong vòng tay duy nhất của người bà. Cậu lớn lên giữa ánh nhìn lạnh lẽo của người cha, sự hờ hững của người mẹ, và sự rời rạc trong mối quan hệ máu mủ. Cuộc sống của Phi trôi qua trong cô đơn, không bám víu, không điểm tựa, không cả niềm tin. Còn ông Sáu Đèo – một ông già nghèo khổ, sống cùng con bìm bịp, phiêu bạt qua ba mươi ba chỗ ở chỉ để kiếm tìm người vợ đã bỏ đi không từ biệt sau một lần cãi vã. Hai con người, hai thế hệ, hai số phận nhưng đều cùng chung một điểm: là những kẻ bị bỏ lại trong thế giới rộng lớn, bị cuốn vào dòng chảy mênh mông của cuộc sống mà không có nơi nào thật sự là “nhà”.
Tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh ấy, họ hiện lên như những con người không ngừng kiếm tìm, khao khát hạnh phúc. Phi dù sống lôi thôi, vật vờ qua ngày, vẫn không đánh mất khát vọng kết nối với con người, khát vọng được thương yêu và được quan tâm. Khi nhận nuôi con bìm bịp thay ông Sáu Đèo, anh như tự nguyện gánh vác một mối duyên, một món nợ nghĩa tình – điều tưởng như vô nghĩa giữa phố thị lạnh lùng, nhưng lại chính là ngọn lửa ấm hiếm hoi trong đời Phi. Còn ông Sáu Đèo, suốt gần bốn mươi năm, sống nghèo đói, dời chỗ liên tục chỉ để “xin lỗi chớ làm gì bây giờ”, vẫn không ngừng đi, không ngừng tin – như thể cả đời ông được duy trì chỉ bằng niềm hy vọng mong manh rằng vợ ông vẫn còn đâu đó. Sự bền bỉ và tha thiết ấy chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất của khát vọng yêu thương và tìm lại hạnh phúc.
Từ đó, Nguyễn Ngọc Tư còn khắc họa rõ nét tình yêu sâu nặng với quê hương, xứ sở – thứ gắn bó máu thịt với tâm hồn Nam Bộ. Dù rời bỏ miền quê nghèo, lên phố thị học tập và sinh sống, nhưng Phi vẫn giữ một nếp sống thô mộc, chân chất. Trong anh, dường như không có gì thuộc về nơi chốn đông đúc kia, mà chỉ có âm vang của bà ngoại, của mái nhà cũ, của ký ức quê nhà còn vương vất. Ông Sáu Đèo cũng vậy – một con người lênh đênh sông nước, sống gắn bó với ghe, với chợ nổi, với con bìm bịp – tất cả đều là biểu tượng của đời sống miệt vườn miền Tây. Trong hai con người ấy, quê hương không phải là địa danh, mà là nơi giữ gìn nhân cách, là nơi chở che cho những tâm hồn cô độc.
Cao đẹp hơn hết chính là tình cảm thủy chung, vị tha, tấm lòng yêu thương vô bờ mà họ dành cho người khác. Ông Sáu Đèo thủy chung với người vợ đã rời bỏ mình gần bốn mươi năm, chưa một lần buông bỏ hy vọng. Dù từng bị tổn thương, ông không oán giận mà chỉ mong được “xin lỗi”. Phi – tưởng như thờ ơ, phó mặc với đời – nhưng khi nhận lời chăm sóc con bìm bịp, anh đã thể hiện một tấm lòng nghĩa tình hiếm có. Giữa “biển người mênh mông”, họ là những con người bé nhỏ nhưng mang tấm lòng bao la, sống chân thành, vị tha, không tính toán thiệt hơn. Họ là hiện thân của cái chất người rất đỗi Nam Bộ: giản dị mà sâu sắc, mộc mạc mà thủy chung.
Thành công của truyện ngắn còn đến từ nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc. Nguyễn Ngọc Tư không tạo ra những biến cố kịch tính, mà đặt nhân vật trong những tình huống tâm trạng – nơi nội tâm được bộc lộ một cách tự nhiên. Cốt truyện đơn giản, như một lát cắt nhỏ trong đời sống, nhưng lại mở ra chiều sâu của số phận. Tác giả sử dụng điểm nhìn linh hoạt, di chuyển giữa các nhân vật để làm nổi bật những góc nhìn đa chiều. Ngôn ngữ truyện đậm chất Nam Bộ: vừa mộc mạc, dân dã, vừa đậm đà cảm xúc. Những chi tiết được chọn lọc giàu chất thơ như con bìm bịp, cái đầu tóc Phi, ánh mắt của người cha, giọng kể của ông Sáu... đều góp phần gợi nên nỗi buồn man mác, ngậm ngùi, rất riêng trong văn Nguyễn Ngọc Tư.
Biển người mênh mông là truyện ngắn giàu giá trị nhân văn, không chỉ khắc họa chân thực thân phận con người mà còn tôn vinh vẻ đẹp nội tâm – thứ vẻ đẹp bền vững và cảm động nhất. Phi và ông Sáu Đèo là những nhân vật tiêu biểu cho số phận và vẻ đẹp của con người Nam Bộ: sống trong đau thương nhưng vẫn nghĩa tình, thủy chung, không đánh mất nhân cách giữa cuộc đời. Tác phẩm gợi lên trong lòng người đọc sự đồng cảm với những phận đời lạc lõng, nhắc nhở chúng ta phải biết trân quý hơn tình thân, tình người, và hạnh phúc đang có. Đồng thời, đó cũng là lời cảnh tỉnh về sự thờ ơ, vô cảm đang làm nên “biển người mênh mông” – nơi con người có thể nhìn thấy nhau mà không thể chạm đến nhau.
Với truyện ngắn này, Nguyễn Ngọc Tư một lần nữa khẳng định tài năng trong việc khai thác những góc khuất của tâm hồn con người, thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân văn cùng lối viết tinh tế, giàu chất thơ. Văn chương của chị không làm ta rơi nước mắt, nhưng khiến ta lặng đi vì day dứt – và Biển người mênh mông là một minh chứng sâu sắc cho điều ấy.